Thành tựu to lớn của Việt Nam trong bảo đảm quyền văn hóa của các dân tộc thiểu số
QĐND - Chủ Nhật, 17/11/2013, 20:40 (GMT+7)
QĐND
- Những ngày gần đây, sự kiện Việt Nam trúng cử Hội đồng Nhân quyền LHQ
với số phiếu cao nhất được bạn bè thế giới vui mừng đón nhận, coi đây
là vinh dự, trách nhiệm, đồng thời là sự tin tưởng của LHQ vào chính
sách bảo đảm quyền con người ở Việt Nam. Tuy nhiên, các thế lực thù
địch, phản động và một số kẻ chống cộng cuồng tín lại hậm hực và ra sức
xuyên tạc về thành tựu bảo đảm quyền con người ở Việt Nam. Một trong
những nội dung mà họ đang tiếp tục bịa đặt, bôi nhọ Việt Nam là việc bảo
đảm quyền văn hóa của các dân tộc thiểu số. Bằng những thủ đoạn cũ, họ
tung lên các trang mạng điện tử, các blog, facebook… các bài viết “phê
phán” Nhà nước ta tiến hành “những chiến dịch trừ tiệt văn hóa, cuộc
sống truyền thống, tín ngưỡng và tập tục của các dân tộc ít người, đưa
tới hậu quả gạt bỏ họ sang bên lề xã hội” hay “các chính sách quản lý
nhà nước đã khiến cho các đơn vị xã hội cơ sở đó bị phá vỡ, hoặc biến
dạng, các dân tộc chỉ có quyền giữ phần ngọn, còn phần gốc chưa hề được
bảo vệ bởi các công cụ pháp lý”…
Bức tranh tươi sáng về giáo dục-đào tạo
Nhiều
nước trên thế giới đều biết sự kiện chiều 15-3-2011, tại Hội đồng Nhân
quyền LHQ (ở Giơ-ne-vơ, Thụy Sĩ), Chuyên gia độc lập về các vấn đề thiểu
số, bà G.McDougall đã trình bày kết quả chuyến khảo sát Việt Nam, qua
đó đánh giá cao việc Việt Nam coi cộng đồng các dân tộc thiểu số là bộ
phận cấu thành của dân tộc Việt Nam. Bà G.McDougall cũng hoan nghênh
quyết tâm chính trị, các chính sách, biện pháp và chương trình của Chính
phủ nhằm bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số trên mọi lĩnh vực. Cũng
tại hội nghị này, Đại sứ Vũ Dũng, Trưởng Phái đoàn Việt Nam bên cạnh
LHQ, WTO và các tổ chức quốc tế khác tại Giơ-ne-vơ, đã khẳng định việc
bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số, nhất là quyền phát triển luôn là
ưu tiên cao của Việt Nam, thể hiện trong luật pháp, chính sách, các
chương trình quốc gia và Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu được cộng đồng
quốc tế ghi nhận, đặc biệt về xóa đói giảm nghèo, giáo dục, y tế, tạo
việc làm, giữ gìn bản sắc văn hóa, ngôn ngữ, truyền thống của các dân
tộc thiểu số.
Ngược
dòng lịch sử, người viết bài này đặc biệt ấn tượng khi được biết, ngay
từ văn kiện đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội lần thứ nhất
(3-1935), trong điều kiện Đảng đang bị thực dân, đế quốc đàn áp ráo
riết, nhưng nghị quyết của Đảng đã khẳng định: “Các dân tộc được dùng
tiếng mẹ đẻ của mình trong sinh hoạt chính trị, kinh tế và văn hóa”.
Quan điểm trên được xuyên suốt qua các thời kỳ cách mạng, được tiếp tục
khẳng định qua các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước đối với vấn đề bảo đảm quyền hưởng thụ văn hóa, nhất là quyền học
và dạy tiếng nói, chữ viết của các dân tộc thiểu số Việt Nam.
Từ khi
giành được độc lập (năm 1945) đến nay, chính sách, pháp luật nhất quán
của Đảng và Nhà nước ta đối với các dân tộc là: Đoàn kết, bình đẳng,
thương yêu, tôn trọng giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc. Điều 5, Hiến
pháp năm 1992, quy định: “Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, nhà nước
thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Nhà
nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân
tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Các dân tộc có
quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và phát
huy những phong tục tập quán truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình”.
Gần
đây nhất, ngày 15-11-2013, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã có buổi gặp
mặt thân mật học sinh giỏi người dân tộc thiểu số. Chủ tịch nước biểu
dương 105 em học sinh người dân tộc thiểu số đã phấn đấu vươn lên giành
nhiều giải cao trong các kỳ thi tuyển sinh đại học, cao đẳng năm 2013,
trong đó 96 em đạt giải học sinh giỏi quốc gia, 9 em đỗ thủ khoa các
trường đại học với số điểm 28 điểm trở lên. Các em như Giàng A Hồng (dân
tộc Mông, thủ khoa Trường Đại học Nội vụ), Lý Thu Hằng (dân tộc Nùng,
đoạt giải ba kỳ thi học sinh giỏi quốc gia)… đã phát biểu bày tỏ sự cảm
động trước sự quan tâm, ưu tiên bằng những chính sách cụ thể của Đảng,
Nhà nước để học sinh người dân tộc thiểu số được học tập trong điều kiện
tốt nhất.
105
học sinh giỏi nói trên là minh chứng cụ thể nhất trong việc bảo đảm
quyền được giáo dục và đào tạo, một quyền cơ bản, quan trọng nhất về
quyền văn hóa của các dân tộc thiểu số. Theo báo cáo của Ủy ban Dân tộc,
trong thời gian qua, công tác giáo dục và đào tạo ở vùng có đông đồng
bào dân tộc thiểu số sinh sống đạt được nhiều thành tựu quan trọng. 100%
xã đã có trường tiểu học, hơn 95% trẻ em trong độ tuổi được đến trường,
gần 90% số xã đặc biệt khó khăn đã hoàn thành phổ cập trung học cơ sở.
Để đẩy mạnh GD-ĐT trong đồng bào dân tộc thiểu số, Nhà nước Việt Nam có
sáng kiến phát triển các loại hình trường nội trú, bán trú, dự bị đại
học dân tộc. Tính đến năm 2011, đã có 295 trường phổ thông dân tộc nội
trú ở 50 tỉnh, với gần 90.000 học sinh theo học, tăng 73% so với năm
1998. Về loại hình trường phổ thông dân tộc bán trú, đến năm 2011 đã có
1.657 trường với khoảng 150.000 học sinh dân tộc thiểu số theo học, tăng
hơn 250% so với năm 2001. Về loại hình trường dự bị đại học, đã có 7
trường ra đời và đào tạo gần 14.000 học sinh với 95% học sinh đủ điều
kiện vào đại học. Cùng với đó, chính sách ưu tiên người dân tộc thiểu số
vào học đại học, cao đẳng đã đưa 14.283 sinh viên của 53 dân tộc thiểu
số vào đại học, cao đẳng. Như vậy, đến nay, 100% các dân tộc thiểu số ở
Việt Nam đều đã có người tốt nghiệp đại học, cao đẳng.
Tiếng nói, chữ viết được bảo tồn và phát triển
Bảo
tồn tiếng nói, chữ viết cho các dân tộc thiểu số là vấn đề được ưu tiên
hàng đầu trong chính sách giáo dục của Nhà nước Việt Nam. Trước đây,
trong các dân tộc thiểu số ở nước ta, chỉ có dân tộc Hoa, Chăm, Khơ-me
là có sẵn tiếng nói và chữ viết riêng, còn lại hầu hết các dân tộc thiểu
số khác chỉ có tiếng nói mà chưa có chữ viết riêng. Ngày 22-2-1980, Hội
đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành Quyết định 53/CP, xác định:
"Tiếng nói và chữ viết của mỗi dân tộc thiểu số Việt Nam vừa là vốn quý
của dân tộc đó, vừa là tài sản văn hóa chung của cả nước". Quyết định
này tạo điều kiện cho các nhà nghiên cứu khoa học, nhà văn hóa, nhà
nghiên cứu dân tộc tiến hành La-tinh hóa cách phát âm ngôn ngữ của một
số dân tộc, phương pháp mà nhà truyền giáo A-lếch-xăng Đờ Rốt đã làm
trước đây với chữ Nôm để xây dựng chữ quốc ngữ. Đến nay, gần 30 dân tộc
thiểu số có chữ viết, như các dân tộc: Tày, Thái, Hoa, Khơ-me, Nùng,
Mông, Gia Rai, Ê Đê, Ba Na, Xơ Đăng, Kơ Ho, Chăm, Hrê, M'nông, Raglai...
Nhiều ngôn ngữ, chữ viết dân tộc thiểu số được sử dụng trên các phương
tiện thông tin đại chúng từ Trung ương tới các địa phương, như: Tày,
Thái, Dao, Mông, Gia Rai, Ê Đê, Ba Na, Chăm, Khơ-me… Thành tựu này cho
thấy nỗ lực to lớn của Nhà nước Việt Nam trong bảo tồn, phát triển chữ
viết các dân tộc thiểu số.
Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 5 (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, khẳng định: “Bảo tồn
và phát triển ngôn ngữ, chữ viết của các dân tộc. Đi đôi với việc sử
dụng tiếng nói, chữ viết phổ thông, khuyến khích thế hệ trẻ thuộc đồng
bào các dân tộc thiểu số học tập, hiểu biết và sử dụng thành thạo tiếng
nói, chữ viết của dân tộc mình…”. Ngày 14-1-2011, Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 05/2011/NĐ-CP về công tác dân tộc, trong đó khẳng định:
"Tiếng nói, chữ viết và truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc
được đưa vào chương trình giảng dạy trong các trường phổ thông, trường
phổ thông dân tộc nội trú, phổ thông dân tộc bán trú, trung tâm giáo dục
thường xuyên, trung tâm học tập cộng đồng, trường dạy nghề, trung học
chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học phù hợp với địa bàn vùng dân tộc".
Theo
tổng hợp của Ủy ban Dân tộc, tính đến cuối năm 2009, đã có gần 30 tỉnh
tổ chức dạy và học tiếng dân tộc thiểu số; cả nước đã biên soạn giáo
trình bằng 12 thứ tiếng dân tộc; 1.200 công trình nghiên cứu ngôn ngữ,
văn hóa của 10 dân tộc thiểu số được đưa lên sóng phát thanh-truyền
hình. Cả nước hiện có 200.000 học sinh ở hơn 600 trường đang theo học
tiếng dân tộc.
Nền văn hóa phát triển thống nhất trong đa dạng
Quyền
văn hóa của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam còn thể hiện ở quyền tham
gia các hoạt động văn hóa của người dân tộc thiểu số. Tất cả các quyền
thuộc lĩnh vực văn hóa tinh thần được pháp luật bảo hộ, được cả hệ thống
chính trị đồng lòng triển khai thực hiện, nhằm xây dựng nền văn hóa
thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc. Điều đó được minh
chứng rõ nét khi sự phát triển các hình thức sinh hoạt văn hóa của các
dân tộc thiểu số ngày càng phong phú, đa dạng, kết hợp giữa văn hóa
truyền thống và hiện đại trong xu thế giao lưu, hội nhập. Người dân tộc
thiểu số ở tất cả các vùng miền được tham gia hoạt động văn hóa mang bản
sắc dân tộc, 100% các xã có trạm truyền thanh, 92% đồng bào được nghe
đài phát thanh, 85% được xem truyền hình với nhiều chương trình phát
bằng tiếng Mông, Thái, Ê Đê, Chăm, Khơ-me… Đời sống văn hóa tinh thần
của đồng bào các dân tộc trong những năm qua được cải thiện rõ rệt, mức
hưởng thụ văn hóa được nâng cao. Nhiều giá trị văn hóa các dân tộc thiểu
số được bảo tồn và phát triển, được công nhận di sản văn hóa thế giới
như “Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên”, “Khu di tích Mỹ Sơn”,
“Cao nguyên đá Đồng Văn”. Năm 2011, Việt Nam bắt đầu tổ chức trình diễn
trang phục 54 dân tộc và thi Hoa hậu các dân tộc Việt Nam…
Nghị
quyết Đại hội XI của Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Văn hóa là nền tảng
tinh thần của xã hội”, trong đó “các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam
bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ, thực
hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Trong thực tiễn,
Đảng, Nhà nước ta luôn xác định chăm lo đời sống của đồng bào các dân
tộc thiểu số không chỉ là trách nhiệm, nghĩa vụ, mà còn là chính sách
nhất quán “thực hiện công bằng trong từng bước phát triển”, nhằm tri ân
đối với đồng bào có công với cách mạng trong những thời kỳ khó khăn
trước đây.
Dù các
thế lực thù địch ra sức xuyên tạc, bịa đặt, nhưng thành tựu to lớn
trong việc bảo đảm quyền văn hóa của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam là
thực tế sinh động, không thể phủ nhận!
HỒNG HẢI
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét