Thứ Tư, 3 tháng 6, 2015

PHÁT TRIỂN TRIẾT HỌC VỀ CON NGƯỜI - MỘT KHUYNH HƯỚNG QUAN TRỌNG NHẤT TRONG TRIẾT HỌC MÁC NGÀY NAY

Như chúng ta đã biết, triết học Mác- Lênin là học thuyết về sự phát triển phổ biến và toàn diện nhất về tự nhiên, xã hội và con người.Triết học đó có quá trình phát triển và tất nhiên ngày nay có nhu cầu phát triển hơn nữa từ những tác động sâu sắc của thực tiễn xã hội và cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận về thế giới quan, phương pháp luận và nhân sinh quan.   
          Một trong những khuynh hướng và vấn đề quan trọng nhất đó là triết học về con người. Trên nền tảng của quan niện duy vật và biện chứng Mác đã phát minh ra học thuyết duy vật lịch sử mà nội dung cơ bản nhất là lý luận về hình thái kinh tế xã hội và vai trò con người đối với lịch sử. Mặc dù ngay từ đầu Mác đã đề cập khá nhiều vấn đề về con người, lấy con người hoạt động thực tiễn trong tổng hòa quan hệ với tự nhiên và xã hội, làm điểm xuất phát cho triết học của mình. Nhưng nhìn chung ông đi sâu vào nghiên cứu hệ thống xã hội mà ít có dịp nghiên cứu có hệ thống như một học thuyết lớn, cũng tức là ít có chuyên luận riêng đồ sộ về vấn đề này. Tuy thế vấn đề con người xã hội, bản chất xã hội của con người vẫn được Mác nghiên cứu, trình khá sâu sắc còn con người vô thức, tâm linh, con người tự nhiên thì quả là còn trống.
Chủ nghĩa Mác đã phân tích con người về mặt chính trị, mặt tinh thần, nhất là mặt kinh tế. Các nhà kinh điển đã phát hiện và làm rõ sự hình thành và phát triển của con người và loài người chủ yếu từ lao động sản xuất xã hội; đồng thời cũng soi sáng phân tích mặt tự nhiên, huyết thống, nhân chủng đối với sự hình thành ấy của con người. Nhưng dù sao khi C.Mác nghiên cứu con người xã hội đã quan niệm rằng con người là gia đình, là xã hội, là nhà nước và các hoàn cảnh xã hội nên đã làm rõ cơ sở khách quan của sự hình thành, phát triển con người là một bước tiến xa so với những tác giả đương thời.
Trước Mác, các nhà triết học thường chỉ nghiên cứu làm rõ mặt nhân bản, tự nhiên, mặt đạo đức, mặt nội tâm của con người trong quan hệ với vũ trụ, như trong đạo Phật, đạo Lão, đạo Khổng. Ở đây có nhiều hạt nhân hợp lý cần nghiên cứu kế thừa.
Triết học tư sản hiện đại, một mặt tiếp tục nghiên cứu khuynh hướng triết học khoa học, hướng ngoại, thì mặt khác lại đi vào nghiên cứu triết học nhân bản, phi duy lý, mang tính hướng nội dù có mặt duy tâm nhưng đã có bước tiến là đi sâu vào nghiên cứu con người vô thức, tâm linh. Đó là chủ nghĩa Freud, chủ nghĩa Hiện sinh, thượng và hạ, đặc biệt là nhân loại học triết học. Các khuynh hướng của chủ nghĩa nhân bản nói trên dù sao cũng đã nêu lên được những vấn đề cụ thể trong đời sống nội tâm của con người như kết cấu nhân cách, vấn đề vô thức, trực gíc, nhưng yếu tố tâm lý, tâm linh, những trạng thái tâm lý của cái tôi (vui, buồn, cười khóc, cô đơn, buồn phiền, thất vọng…), vấn đề sinh mệnh.Trong chiều sâu bản thể, nhất là khi cái tôi trong xã hội tư bản chủ nghĩa rơi vào khủng hoảng, bế tắc. Riêng nhân loại học triết học đã cố gắng đưa ra đối tượng của mình như là sự tiếp cận toàn diện đối với con người trong mối liên hệ với chính mình, với lịch sử, với vũ trụ và Thượng đế. Nhân loại học hay nhân học là một ngành khoa học được thừa nhận ngày nay, nhưng nhân loại học còn là về mặt triết học, tức vấn đề thế giới quan. Về mặt triết học, nó bao gồm nhân loại học sinh vật học, nhân loại học tâm lý, nhân loại học văn hóa. Các nhà nhân loại học về sau này cũng đã nhận thấy mặt còn hạn chế là vấn đề đặt ra còn mang tính nhị nguyên, lại chưa chú ý đến mặt xã hội chính trị của con người. Nhưng cách đặt vấn đề của nhân loại học triết học có khá nhiều mặt cần phải quan tâm nghiên cứu với tinh thần khách quan biện chứng.
Đúng là nhân loại học đã không chú ý, hoặc lãng tránh vấn đề xã hội, kinh tế và chính trị của con người, tức là nghiên cứu tính hiện thực của con người trong kinh tế và chính trị từ xã hội tư bản chủ nghĩa, chứ không chỉ là mặt sinh vật học và văn hóa.Về mặt này quả là họ không vượt được chủ nghĩa Mác.
Trước uy tín của chủ nghĩa Mác về vấn đề con người, cũng đã có khuynh hướng muốn kết hợp chủ nghĩa Freud, hoặc chủ nghĩ Hiện sinh với chủ nghĩa Mác.. Tuy có mặt hợp lý nào đó nhưng họ thường nhìn qua lăng kính của chính chủ nghĩa Freud hay chủ nghĩa Hiện sinh, làm sai lạc quan điểm mác xít về con người xã hội, nên nhìn chung chưa có bước tiến đáng kể nào.
Khi phê phán các triết học nhân bản trước đây cũng như triết học tư bản hiện đại, phê phán phải khách quan, biện chứng, tức là lược bỏ mặt không đúng nhưng phải kế thừa những nội dung hợp lý, đặt những vấn đề ấy trên miếng đất hiện thực, khoa học với lập trường duy vật biện chứng và nhân văn, có cách nhìn bao dung, tìm cái tương đồng ở lòng bác ái, đức từ bi, tính nhân nghĩa, tình thương yêu nhân loại khổ đau… như Hồ Chí Minh đã sử sự đối với các bậc vĩ nhân, các tôn giáo. Phê phán chủ nghĩa nhân bản Phơbách như Mác đã làm cũng tức là không gạt bỏ tính nhân đạo cơ bản, vấn đề triết học con người, cải tạo, phát triển nó, đối với triết học tư sản ngày nay cũng vậy, không thể từ cực này sang cực khác.
Ngày nay trong khoa học hiện đại, đặc biệt là các môn cận khoa học, cận hóa học, cận tâm lý, cận vật lý, cận sinh học, có thể cả tâm linh học, đang cho ta phương pháp, dữ liệu, thông tin để hiểu sâu sắc về thế giới nội tại của con người,hiểu bản thể con người theo chiều sâu vũ trụ của nó. Ở đây ta bắt gặp vật lý hiện đại với đạo học phương Đông, như thuyết đạo học của Lão tử, về chân như của Phật học, về âm dương, kinh dịch trong nền văn hóa cổ Trung Hoa. Đó là chưa kể đến thuyết nhân nghĩa, kiêm ái của Khổng Mạnh. Những tư tưởng triết học này đã ảnh hưởng lâu dài, mạnh mẽ tới tư tưởng và tư duy ở nước ta và các nước phương Đông.
Một xu hướng nổi bật hiện nay là phương Đông thì hướng về văn minh kỹ thuật phương Tây, còn phương Tây lại hướng về văn hóa cổ đại và nhất là triết học phương Đông. Dù mỗi bên có đặc thù riêng trong phong cách tiếp cận và vấn đề nhưng lại không loại trừ nhau mà bổ sung cho nhau, đặc biệt trên vấn đề nhân bản và nhân nghĩa, nhân văn, vấn đề con người trong tổng hoà nhân sinh -vũ trụ ở cả chiều rộng và chiều sâu. Xu hướng tích hợp văn hóa Đông Tây đang thành hiện thực và rất có triển vọng để tạo nên minh triết mới của thời đại mới trí tuệ và hội nhập. Nhiều nhà triết học Đông -Tây đang đi theo xu hướng đó đã có nhiều gặt hái thành công (như công trình Đạo vật lý, Tích hợp văn hóa Đông Tây cho một chiến lược giáo dục tương lai). Nhiều vấn đề triết học mới nói chung và triết học về con người đang đặt ra có tầm thời đại, từ thực tiễn đương đại, từ triết cổ phương Đông cần được nghiên cứu, giải quyết để thúc đẩy triết học tiến lên, nhất là triết học Mác..Đó là những cơ hội và vấn đề mà thời Mác, Ănghen, Lênin chưa có. Hồ Chí Minh cũng là một mẫu hình kết hợp văn hóa Đông Tây và thúc đẩy cho sự kết hợp đó. Ngày nay một số nước ở châu Á, phương Đông đã thực hiện sự phát triển kinh tế xã hội bằng sự kết hợp văn hóa, triết lý Đông - Tây rất thành công.
Việc phát triển triết học hiện đại về con người mà giới triết học đang quan tâm thì khá nhiều, nhưng chung quy là:hệ con người sinh học trong sự liên thông với bản thể vũ trụ; vấn đề con người tâm linh, con người sinh thái, khả năng ngoại cảm, vô hình, năng lực trao đổi thông tin; vấn đề con người kinh tế với con người chính trị, con người văn hóa, những tiềm năng con người cần phát triển; vấn đề phát triển nhân cách con người, chỉ số phát triển người; vấn đề đặc thù và phổ biến trong bản chất, cấu trúc con người; sự tha hóa, què quặt trong tâm hồn, đạo đức củia con người hiện đại và sự nghiệp giải phóng con người trong quan hệ với giải phóng dân tộc và giải phóng xã hội.
Những vấn đề trên đây có thể gợi mở thêm cho sự tổng hợp, tích hợp triết học về con người. Mà theo chúng tôi với cách tiếp cận tổng hợp- tích có triển vọng nhất, khắc phục sự cô lập, chia cắt con người của các khoa học chuyên ngành và tư duy phân tích, đó là chủ nghĩa duy vật nhân văn. Chủ nghĩa duy vậy nhân văn như thế là một bộ phận mới, cơ bản của triết học Mác hiện đại. Vấn đề chủ nghĩa nhân văn đã được nhiều người nghiên cứu nhưng phải nâng lên tầm một triết học.
Chủ nghĩa duy vật nhân văn như thế là khác xa với nhân loại học triết học, dù có kế thừa từ đó cũng như nhiều lý luận nhân bản khác trên nền tảng triết học Mác, cho nên nó lại có thể mang lại cho chủ nghĩa nhân văn cũ một phương hướng phát triển mới đúng hơn, Triết học Mác cũng như các khoa học phải có khả năng sinh thành, phân hóa và tổng hợp mới, tạo ra bộ phận mới, trình độ mới, giai đoạn mới theo sự phát triển của thực tiễn và lịch sử khoa học. Tất nhiên, triết học Mác sẽ phát triển ở nhiều phương diện của nó, nhưng theo chúng tôi thì phát triển triết học về con người là xu hướng và vấn đề lớn nhất và quan trọng nhất.
Như thế triết học Mác sẽ hoàn chỉnh ở cả ba bộ phận lớn về vũ trụ, xã hội và con người, tạo thành một chỉnh thể. Chủ nghĩa duy vật nhân văn là triết học khoa học toàn diện về con người đang phát triển trong thời đại ngày nay. Đó là cơ sở triết học trực tiếp cho chiến lược phát triển con người, trước hết ở nước ta, có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Đây không phải là vấn đề chữ nghĩa mà là một cách tư duy triết học tổng hợp - thống nhất khả dĩ cho ta dễ nắm được hệ thống và bản chất điều muốn diễn đạt./.

                                                                                       Nguyễn Huy Điểm
                                            Khoa Triết học Mác – Lênin

KẾ THỪA GIÁ TRỊ VĂN HÓA DÂN TỘC TRUYỀN THỐNG TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY


          Trải qua mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước dân tộc ta đã xây dựng nên hệ giá trị văn hóa dân tộc giàu bản sắc. Chính hệ giá trị này đã giúp dân tộc ta vượt qua muôn vàn thử thách và trường tồn đến ngày nay. Đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa, đất nước ta phải huy động mọi nguồn lực, tiềm năng để thực hiện thắng lợi sự nghiệp này. Trong đó kế thừa giá trị văn hóa dân tộc truyền thống là một nội dung quan trọng, tạo động lực tinh thần to lớn cho công nghiệp hóa – hiện đại hóa đạt hiệu quả cao và bền vững.
          Việt Nam đang trên đà phát triển, chưa phải là nước giàu có. Nhưng không ai phủ nhận Việt Nam là nước có bề dày văn hóa đặc sắc. Sức sống mãnh liệt và giá trị văn hóa dân tộc truyền thống được kiểm nghiệm qua thăng trầm của lịch sử. Bị đô hộ trong nghìn năm bởi một nước vốn là trung tâm văn hóa thế giới nhưng dân tộc ta vẫn vùng dậy để tự giải phóng và khẳng định bản sắc văn hóa của mình. Gần trăm năm Pháp thuộc, ba mươi năm chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, dân tộc Việt Nam vẫn giữ vững độc lập chủ quyền. Mặc dù bị chiến tranh tàn phá nặng nề, các nước đế quốc bao vây cấm vận, trong khi hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa sụp đổ nhưng Việt Nam vẫn đổi mới thành công và không ngừng lớn mạnh trên trường quốc tế. Sức mạnh để dân tộc ta vượt qua những thử thách khốc liệt của lịch sử suy cho cùng là sức mạnh văn hóa, bởi nếu không có một nền văn hóa đặc sắc với hệ giá trị tiêu biểu thì nhân dân ta đã không thể tự vùng dậy được và có thể đã bị đồng hóa. Đúng như nhà văn hóa học Trần Văn Giàu nhận xét: “Bị đô hộ hằng mấy thế kỷ bởi một nước có văn hóa cao hơn nhiều và có dân số đông hơn gấp bội, mà sau ngàn năm “ta vẫn là ta” hẳn không phải vì mũi tên nhọn hơn, bắp thịt cứng hơn, mà chủ yếu nhờ văn hóa, nhờ đạo lý, nhờ hệ giá trị tinh thần của riêng mình, chớ nếu lấy sức đọ sức, lấy số đọ số, thì dân Việt, nước Việt chỉ còn là đối tượng của khảo cổ học”([1]).
          Ngày nay cũng vậy, văn hóa đang giữ vai trò đặc biệt quan trọng với mỗi quốc gia. Sự thành bại của sự nghiệp cách mạng hay tồn vong của một đất nước phụ thuộc rất lớn vào văn hóa. Bởi thế có nhà nghiên cứu cho rằng mất nước còn có thể lấy lại, nhưng mất văn hóa là mất tất cả. Từ những thập niên cuối thế kỷ XX UNESCO đã khuyến cáo: “Khi các mục tiêu tăng trưởng kinh tế được đặt ra mà tách rời môi trường văn hóa thì kết quả thu được sẽ rất khập khiễng, mất cân đối cả về mặt kinh tế lẫn văn hóa, đồng thời tiềm năng sáng tạo của mỗi dân tộc sẽ bị suy yếu đi rất nhiều”([2]). Đảng ta trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng luôn quan tâm đến phát huy vai trò của văn hóa để giành, giữ vững độc lập tự do của dân tộc cũng như xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Nghiên cứu văn hóa từ hướng tiếp cận giá trị là một trong những phương pháp phổ biến của triết học văn hóa. Văn hóa và giá trị là hai thuật ngữ có lúc được hiểu là hai thuật ngữ cặp đôi bổ sung cho nhau, thống nhất với nhau. Vì văn hóa chỉ chứa đựng cái đẹp, cái giá trị. Nghiên cứu văn hóa theo hướng giá trị giúp chúng ta phân biệt văn hóa với các khái niệm chỉ sự “tha hóa” của văn hóa như “phản văn hóa”, “phản giá trị”. Khi đề cập đến văn hóa, người ta nhấn mạnh đến khía cạnh sáng tạo vật chất, tinh thần của con người hàm chứa cái chân - thiện - mỹ. Còn khi nói đến giá trị văn hóa là nhấn mạnh đến cái ẩn đằng sau, cái có tác dụng thúc đẩy các sáng tạo văn hóa trong tiến trình lịch sử. Truyền thống có cả mặt tích cực và tiêu cực. Bàn đến giá trị văn hóa dân tộc là nhấn mạnh mặt tích cực của truyền thống. Hơn nữa đó phải là cái tích cực có tính phổ biến, bền vững, có tác dụng to lớn hướng dẫn nhận thức và hành động của dân tộc. Truyền thống có sức mạnh tác động đến hiện tại. Bởi một con người, một cộng đồng, một dân tộc muốn tiến lên trước hết phải biết mình đang có những gì, để đi đến tương lai tươi sáng người ta phải hướng về học hỏi quá khứ. Các giá trị văn hóa truyền thống có vai trò đặc biệt quan trọng với thành công của một quốc gia. Kinh nghiệm của các nước là con rồng của châu Á cho thấy họ luôn coi trọng những giá trị truyền thống. Họ không phá vỡ mà cải biến những giá trị truyền thống để sử dụng. Họ xóa bỏ đi những truyền thống đã lỗi thời, phát huy những cái còn thích hợp với xã hội ngày nay và giữ gìn những cái sẽ còn ý nghĩa trong tương lai.
Đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ. Sự nghiệp đó đòi hỏi phải phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng, nguồn lực làm nền tảng và động lực cho sự phát triển này. Trong đó nhân tố văn hóa có vai trò quan trọng, nó bảo đảm sự phát triển kinh tế hài hòa, cân đối, bền vững. Sự phát triển của công nghiệp hóa – hiện đại hóa không chỉ cần khai thác những nguồn lực từ tự nhiên, quan trọng hơn là phải sử dụng và phát huy tốt nhất các nguồn lực con người mà nguồn lực này lại nằm trong các giá trị văn hóa. Chung quy lại, con người là vốn quý nhất. Khai thác giá trị văn hóa dân tộc truyền thống chính là khơi dậy và nhân lên các nguồn sáng tạo tiềm tàng trong mỗi con người Việt Nam, mang lại cho con người khả năng khai thác tốt nhất các nguồn tài nguyên thiên nhiên theo hướng nhân văn và bền vững. Sự khai thác này cũng khác với khai thác các giá trị từ tự nhiên. Các giá trị từ tự nhiên càng khai thác càng cạn kiệt, nhưng giá trị từ văn hóa dân tộc truyền thống càng khai thác lại càng phong phú và không có giới hạn cuối cùng. Đúng như nhà văn hóa Trần Văn Giàu nhận xét: “Tổ chức tăng sức mạnh lên gấp mười lần … văn hóa tăng sức mạnh lên vô tận”([3]).
Giá trị văn hóa dân tộc truyền thống tồn tại khách quan dưới dạng tiềm năng, nó chỉ thật sự sống lại và phát huy tác dụng trong sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa khi có sự kế thừa. Kế thừa ở đây được xét theo quan điểm biện chứng, không chỉ là bảo tồn, giữ gìn giá trị văn hóa dân tộc truyền thống mà phải phát triển và nâng cao vai trò của những yếu tố này trong điều kiện mới. Kế thừa ở đây bao hàm cả lọc bỏ và vượt gộp giá trị văn hóa dân tộc truyền thống làm động lực cho công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
Kế thừa giá trị văn hóa dân tộc truyền thống trong đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa phải là cách làm sáng tạo. Do đó, cần thực hiện tốt một số biện pháp cơ bản sau:
Một là, cần lựa chọn các giá trị văn hóa dân tộc truyền thống tiêu biểu, có tác dụng to lớn làm động lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Tùy theo hướng nghiên cứu, các nhà văn hóa đã đưa ra một hệ giá trị văn hóa dân tộc truyền thống khác nhau. Dưới góc độ nghiên cứu này, cần phải lựa chọn ba giá trị cơ bản là chủ nghĩa yêu nước; tinh thần lao động cần cù; trí thông minh, sáng tạo để làm động lực cho đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa hiện nay. Bởi vì, chủ nghĩa yêu nước là giá trị cao nhất trong thang giá trị văn hóa dân tộc truyền thống, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử Việt Nam, “bộ lọc” của mọi giá trị, có tác dụng định hướng các giá trị văn hóa dân tộc khác. Lịch sử cũng đã chứng minh khi nào tinh thần yêu nước được phát huy cao độ thì dân tộc ta vượt qua được mọi khó khăn thử thách, dù phức tạp đến đâu. Điều này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh tổng kết: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”([4]). Yêu nước, trong chiến tranh biểu hiện cao nhất là phải hy sinh tất cả để giành độc lập, tự do cho dân tộc, còn trong sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa hiện nay yêu nước phải thể hiện ở khát vọng cao nhất là làm giàu cho Tổ quốc. Muốn làm giàu cho Tổ quốc thì phải cần cù. Do đó, tinh thần lao động cần cù phải được phát huy cao độ, “đem sức ta để giải phóng cho ta”. Mỗi người dân lao động hăng say là điều kiện quyết định để “dân giàu, nước mạnh” và mới có thể tận dụng điều kiện thuận lợi cũng như vượt qua khó khăn do hoàn cảnh thế giới đem lại. Công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước cần phải có khoa học kỹ thuật hiện đại. Việt Nam là nước tiến hành công nghiệp hóa – hiện đại hóa sau nên có thể tham khảo và rút kinh nghiệm từ các nước đi trước, song điều kiện mỗi nước rất khác nhau. Do đó, trí thông minh, sáng tạo của con người Việt Nam cần được phát huy cao độ. Có như vậy dân tộc ta mới có thể thực hiện những bước nhảy vọt để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
Hai là, cần cụ thể hóa các phương thức biểu hiện giá trị văn hóa dân tộc truyền thống trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa để mọi người dễ hiểu và chuyển hóa thành hành động thiết thực. Nếu như giành độc lập tự do là khát vọng cháy bỏng của các thế hệ cha anh đi trước thì phấn đấu đưa nước ta trở thành nước công nghiệp sánh vai với các cường quốc năm châu là mục tiêu cao cả mà thế hệ hôm nay phải thực hiện. Hồ Chí Minh cũng đã từng nhấn mạnh “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Do vậy, cần phải thổi bùng trong các thế hệ hôm nay nhất là thế hệ trẻ khát vọng làm giàu chính đáng. Có niềm tin sâu sắc vào lý tưởng cách mạng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Vì vậy, để kế thừa có hiệu quả giá trị văn hóa dân tộc truyền thống trong đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa cần phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo làm cho giá trị văn hóa dân tộc truyền thống thấm sâu vào mỗi con người. Đặc biệt cần tập trung vào các giá trị tiêu biểu và cụ thể hóa nó với từng ngành, từng lĩnh vực để mọi người làm theo.
Ba là, tạo ra các điều kiện và môi trường xã hội thuận lợi làm cơ sở và động lực cho mỗi người phát huy tốt nhất giá trị văn hóa dân tộc truyền thống trong thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Tiến hành công nghiệp hóa – hiện đại hóa là trách nhiệm của toàn xã hội, của mỗi người dân. Mỗi người thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ mà xã hội giao là đang góp phần vào sự nghiệp chung của đất nước. Trong mỗi con người Việt Nam luôn tiềm ẩn một hệ giá trị văn hóa dân tộc truyền thống, có những giá trị đang chảy trong huyết quản họ hàng ngày, hàng giờ. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng không phải lúc nào giá trị văn hóa dân tộc truyền thống cũng được thể hiện đầy đủ thành những hành động trong cuộc sống khi mà nhiều người còn phải đang vất vả vật lộn với cuộc sống mưu sinh. Do đó, vai trò của Đảng và Nhà nước trong việc tạo ra những điều kiện thuận lợi để mỗi người dân dù ở vị trí xã hội khác nhau đều có thể phát huy tốt nhất giá trị văn hóa dân tộc truyền thống trong thực hiện thắng lợi các mục tiêu của công nghiệp hóa – hiện đại hóa là rất quan trọng. Thực hiện yêu cầu này Đảng và Nhà nước cần nghiên cứu và ban hành các cơ chế, chính sách phù hợp hơn nữa để kết hợp chặt chẽ giữa tuyên truyền, giáo dục giá trị văn hóa dân tộc truyền thống với đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước. Thi đua trong lao động sản xuất được thực hiện với nhiều biện pháp, trong đó giá trị văn hóa dân tộc truyền thống luôn là chất kích thích quan trọng, mạnh mẽ để mỗi người ra sức làm giàu chính đáng cho bản thân và đóng góp ngày càng nhiều hơn cho đất nước. Đồng thời thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng và củng cố vững chắc khối đại đoàn kết dân tộc: “lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng, xóa bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc”([5]). Cùng với đó cần kết hợp và giải quyết tốt mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể, giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Tóm lại, công nghiệp hóa – hiện đại hóa là quá trình lâu dài, gian khổ. Kế thừa giá trị văn hóa dân tộc truyền thống có ý nghĩa sống còn trong tạo ra động lực tinh thần của quá trình này. Ý thức sâu sắc tầm quan trọng của vấn đề đó Đảng ta trong Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI tiếp tục nhấn mạnh vai trò to lớn của giá trị văn hóa dân tộc truyền thống đối với sự nghiệp cách mạng: “Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc... Phát huy các giá trị văn hóa truyền thống”([6]). Tư tưởng chỉ đạo này cần được quán triệt sâu rộng và đi vào thực tiễn để mỗi người Việt Nam đều có thể góp phần tích cực nhất trong thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
                                         Thạc sĩ Vũ Văn Bách
                                     Giảng viên Khoa Triết học, Trường Đại học Chính trị



1Trần Văn Giàu, Phương pháp luận về vấn đề văn hóa và phát triển, in trong Phương pháp luận về vai trò của văn hóa trong phát triển, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993, tr.56.
2 Ủy ban quốc gia về thập kỷ quốc tế phát triển văn hóa, Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa, Nxb. Văn hóa – thông tin, Hà Nội, 1992, tr.19.
3 Trần Văn Giàu, sđd, tr.56.
4 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.38.
5 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.240.
6 http://baodientu.chinhphu.vn/Tin-noi-bat/Nghi-quyet-Hoi-nghi-Trung-uong-9-khoa-XI/201435.vgp

Thứ Sáu, 13 tháng 3, 2015

NHẬN DIỆN ĐỂ ĐẤU TRANH TRÊN LĨNH VỰC CHÍNH TRỊ, TƯ TƯỞNG HIỆN NAY

                                                           Đại tá, TS Nguyễn Trung Thông                                                                 
                                                                        Khoa Triết học Mác – Lênin
                                                                        Trường Sĩ quan Chính trị
Sự thất bại cay đắng trong chiến tranh xâm lược Việt Nam đã làm sụp đổ hoàn toàn tham vọng bá chủ thế giới của Mỹ bằng con đường chủ nghĩa thực dân kiểu mới. Song, âm mưu và tham vọng chống phá cách mạng Việt Nam, đưa Việt Nam đi theo quỹ đạo của Mỹ chưa bao giờ thay đổi. Bằng chiến lược “diễn biến hòa bình” kết hợp với “bạo loạn lật đổ”, chúng đang ngày đêm nuôi hi vọng chế độ Cộng sản ở Việt Nam sẽ nhanh chóng và dễ dàng sụp đổ như ở Liên Xô và Đông Âu thập niên 90 của thế kỉ XX.
Tình hình đó đòi hỏi công tác tư tưởng, lý luận ở nước ta hiện nay phải có đủ sức phòng, chống và đấu tranh làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa bình”. Trước hết, phải vạch rõ âm mưu, thủ đoạn đen tối của chúng, giúp mọi người nhận diện chính xác để có cơ sở phòng, chống và đấu tranh thắng lợi. Trong bài viết này, tác giả chỉ đề cập tới một số âm mưu, thủ đoạn của Mỹ và các thế lực thù địch chống phá cách mạng Việt Nam trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng nhằm phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng và xoá bỏ chế độ Cộng sản ở Việt Nam.
Khi bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, Cựu Tổng thống Mỹ BilClintơn tuyên bố không cần che đậy âm mưu đen tối của Mỹ: “quan hệ với Việt Nam là vì lợi ích của Mỹ và để chuyển hóa chế độ, chính sách ở Việt Nam theo kiểu Đông Âu và Liên Xô cũ” (1). Cựu Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Kissinger cũng khẳng định: “Những người Cộng sản Việt Nam đã thắng trong chiến tranh, nhưng họ sẽ thua trong hòa bình, trước đây Cộng sản đã dùng súng để đuổi người Mỹ ra khỏi Sài Gòn, ngày nay người Mỹ sẽ dùng dollarr để đuổi Cộng sản ra khỏi Sài Gòn” (2).
Với ý đồ đen tối đó, Mỹ và các thế lực thù địch đã ráo riết thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” bằng nhiều thủ đoạn tinh vi, nham hiểm và trên thực tế, chúng đã đạt được những kết quả nhất định. “Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng. Những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, tự diễn biến, tự chuyển hóa có diễn biến phức tạp” (3) ở nước ta hiện nay xuất phát từ nhiều nguyên nhân, nhưng không thể không kể đến sự tác động từ chiến lược “diễn biến hoà bình” của Mỹ và các thế lực thù địch.
 Để thực hiện âm mưu của mình, chúng đã huy động một bộ máy tuyên truyền khổng lồ: 52 đài phát thanh, truyền hình có chương trình Việt ngữ, 529 tờ tạp chí, trên 40 nhà xuất bản. Hàng năm có trên 3000 tài liệu chiến tranh tâm lý, 28000 thư ân xá quốc tế, gần 11000 ấn phẩm ...được phát tán, thẩm lẩu vào Việt Nam bằng nhiều con đường khác nhau. (4)
Với âm mưu: “đầu vào kinh tế, đầu ra chính trị”, Mỹ và các thế lực thù địch đã triệt để khai thác, lợi dụng vấn đề kinh tế để thúc đẩy “tự diễn biến”, làm chuyển hoá nội bộ ta. Chúng lợi dụng chính sách đầu tư, hợp tác kinh tế để khống chế kinh tế nước ta và thực hiện “diễn biến hoà bình”. Với những “chính sách mềm”, Mỹ làm cho nhiều người lầm tưởng rằng, chúng đã “hồi tâm”, “đổi tính”, “ân hận” do tội ác tày trời, gieo giắc bao đau thương, tang tóc cho nhân dân Việt Nam trong chiến tranh, nay có trách nhiệm “bồi thường”, “giúp đỡ” để khôi phục, phát triển kinh tế Việt Nam. Song, thực chất mọi chính sách đó của Mỹ đều nhất quán theo đuổi mục đích mà BilClintơn và Kissinger đã từng tuyên bố: “Những người Cộng sản Việt Nam đã thắng trong thời chiến, nhưng họ sẽ thua trong thời bình”. Theo năm tháng, số USD của Mỹ đổ vào Việt Nam ngày càng tăng và tỉ lệ thuận với nó là hi vọng của Mỹ sẽ làm lũng đoạn nền kinh tế, tiến tới thay đổi chế độ chính trị xã hội ở Việt Nam ngày càng lớn.
Dưới chiêu bài giúp Việt Nam đào tạo nguồn nhân lực cao trong tương lai, Mỹ khuyến khích cấp học bổng cho học sinh, sinh viên Việt Nam đi học tập, đào tạo tiến sĩ, thạc sĩ tại Mỹ và các nước tư bản khác, đặc biệt nhằm vào các đối tượng là con, em cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước với mục tiêu lôi kéo, chuyển hoá lối sống, quan điểm chính trị, tạo ra một “giai cấp mới” thân Mỹ. Từ đó, từng bước tác động làm thay đổi cơ sở kinh tế và tư tưởng chính trị của thế hệ trẻ “để cho con cháu của họ tự lật đổ cha ông chúng và lật đổ chế độ Cộng sản ở Việt Nam”. Bởi chúng hi vọng những thạc sĩ, tiến sĩ đó trong tương lai sẽ nắm giữ cương vị quan trọng trong các ngành kinh tế chủ chốt và qua đó sẽ làm chuyển hóa nền kinh tế Việt Nam phát triển theo quy luật kinh tế tư bản và thay đổi chế độ chính trị ở Việt Nam theo chủ nghĩa tư bản.
          Mỹ và các thế lực thù địch cố gắng tìm cách luận giải và chứng minh “tính lỗi thời của học thuyết Mác - Lênin”. Theo họ, học thuyết Mác - Lênin là sản phẩm của Mác, Ăngghen và Lênin ở Châu Âu từ thế kỷ XIX nên không phù hợp với Việt Nam ở Châu Á và càng không phù hợp với Việt Nam ở thế kỷ XXI. Gần đây, chúng đưa ra luận điệu: “Việt Nam đang bế tắc về đường lối, không ai còn tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin”; chúng còn xuyên tạc lịch sử và cho rằng: “Cách mạng Tháng Mười Nga là sự đẻ non, là sai lầm của lịch sử”. Từ đó, chúng cho rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam áp dụng Chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam là một sự gán ghép , gượng gạo dẫn đến sai lầm”.... Tất cả những luận điệu trên của Mỹ và các thế lực thù địch đều nhằm làm lay chuyển lập trường chính trị, tư tưởng của Đảng và nhân dân ta.
          Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin, tinh hoa văn hoá phương Đông, phương Tây và chủ nghĩa yêu nước của dân tộc Việt Nam. Nội dung cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Song, đã bị chúng cố tình xuyên tạc: Hồ Chí Minh là người dân tộc chủ nghĩa thuần tuý, còn chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ chú trọng đến đấu tranh giai cấp nên không thể dung nạp, kết hợp được với nhau, nhất là trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường như ở Việt Nam hiện nay. Việc Hồ Chí Minh du nhập, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam là một sai lầm lịch sử, là nguyên nhân dẫn đến cảnh “huynh đệ tương tàn”, “nồi da nấu thịt” trong suốt mấy chục năm chiến tranh.   Mục đích của chúng là nhằm phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin và sâu xa hơn là xoá bỏ nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng ta, hòng làm cho nước ta chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
      Đặc biệt, Mỹ và các thế lực thù địch tập trung chống phá, xuyên tạc các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam hòng làm cho Đảng ta suy yếu về chính trị, tư tưởng và tổ chức nhằm đẩy nhanh quá trình “tự diễn biến”, phủ nhận sự độc tôn lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với nhiều âm mưu, thủ đoạn vừa tinh vi, xảo quyệt, vừa trắng trợn, công khai. Chúng cho rằng, sự độc tôn lãnh đạo của Đảng là nguyên nhân, gốc rễ dẫn đến những sai lầm, đặc biệt dẫn đến tình trạng độc đoán, chuyên quyền, lấn sân và tất yếu sẽ dẫn đến chế độ “Đảng trị”, bóp nghẹt dân chủ, hoặc “dân chủ giả hiệu” “dân chủ hạn chế”....Song, thực tế ở Mỹ và các nước tư bản khác cho thấy “tự do”, “dân chủ tuyệt đối”, “công bằng”, “văn minh”...chỉ là những mỹ từ dùng cho giai cấp tư sản thống trị; đại bộ phận xã hội là giai cấp công nhân và nhân dân lao động đâu có cơ sở kinh tế, xã hội để thực hiện tự do, dân chủ, bình đẳng và văn minh?. Thực chất, đây là luận điệu tuyên truyền cho đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập nhằm phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
          Trực tiếp xuyên tạc quan điểm, đường lối của Đảng nhằm phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, các thế lực thù địch cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là trái quy luật phát triển, là sự nhầm lẫn của lịch sử; do đó, không thể thực hiện được. Chúng công khai ca ngợi những người theo con đường Tư bản chủ nghĩa và lập luận: “Không nên cứ tôn thờ Chủ nghĩa xã hội một cách lý thuyết suông mà không hoà nhập vào thời đại, đi theo con đường Tư bản chủ nghĩa. Tự giác thì sẽ đến đích nhanh hơn, không tự giác thì tất yếu cũng phải đi theo con đường đó, nhưng đến đích chậm chạp hơn, đau đớn hơn” (6) và “con đường mà Việt Nam muốn đi là thứ tư bản chủ nghiã theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng con đường này không thể thành công vì không thể nào giải quyết thỏa hiệp giữa hai chủ nghĩa đối lập nhau” (7). Tất cả những luận điệu trên đều nhằm tuyên truyền cho mô hình “xã hội dân chủ” và tư tưởng dân chủ tư sản, thực hiện mưu đồ xoá bỏ chuyên chính vô sản, xoá bỏ đấu tranh giai cấp, tiến tới xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, gây ra nhận thức mơ hồ, lệch lạc để lừa bịp quần chúng nhân dân.
           Lợi dụng quyền tự do góp ý xây dựng Hiến pháp mới, chúng tìm mọi cách để xoá bỏ điều 4 trong Hiến pháp Việt Nam, coi đó là cơ sở dẫn đến Đảng độc tài, xã hội mất tự do, dân chủ....Một số kẻ phản bội người Việt lưu vong, núp dưới danh nghĩa “công dân yêu nước” ra sức cổ suý, tán dương cho các quan điểm đó như: Bùi Tín, Dương Thu Hương, Cù Huy Hà Vũ ...đòi Đảng phải “cải tổ Đảng”, “đổi mới triệt để”. Thực chất, đây là cái bẫy rất hiểm độc mà chúng đã từng sử dụng thành công ở Liên Xô và một số nước Đông Âu cuối thế kỷ XX nhằm xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng ta. Nếu chúng ta không tỉnh táo, sáng suốt để rơi vào cái bẫy đó thì sẽ khó lường hết những hậu quả xảy ra đối với Đảng, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
          Theo chúng, Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ giỏi lãnh đạo tiến hành chiến tranh, không có khả năng lãnh đạo xây dựng đất nước phát triển kinh tế. Hiện nay, đường lối của Đảng mang tính “chắp vá”, “không tưởng”, là nguyên nhân dẫn đến đói nghèo của dân tộc Việt Nam. Nhưng sự thật cho thấy, bên cạnh nhiều nước tiến hành “Cải tổ”, “Cải cách” thất bại, công cuộc “Đổi mới” đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã, đang thu được nhiều thắng lợi to lớn, toàn diện: tình hình an ninh, chính trị ổn định; nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang phát huy tác dụng và khẳng định tính ưu việt của nó. Từ một nước nhiều năm liền nhập siêu, đặc biệt về lương thực, nhờ đường lối đổi mới, Việt Nam đã vươn lên vị trí xuất khẩu nhiều mặt hàng đứng ở vị trí nhất, nhì thế giới như: gạo, cà phê.... Trước công cuộc đổi mới, chúng ta có nằm mơ cũng không mơ tới những thành tựu đó. Như vậy, những thành tựu toàn diện trên các lĩnh vực do công cuộc đổi mới đất nước gần 30 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam mang lại đang là minh chứng hùng hồn, chống lại những luận điệu xuyên tạc của Mỹ và các thế lực thù địch.
           Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng chỉ rõ: “Giữ vững bản chất và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta hiện nay”(8). Vì vậy, vạch trần âm mưu, thủ đoạn và mọi luận điệu chống phá của các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng để mọi cán bộ, đảng viên và toàn dân nhận diện rõ ràng, sâu sắc làm cơ sở phòng, chống và đấu tranh chống âm mưu “Diễn biến hoà bình” của Mỹ và các thế lực thù địch là nhiệm vụ cấp bách và vô cùng quan trọng của công tác tư tưởng, lý luận hiện nay.
Chú thích:
       1,2,4,5,7. Bản tin “Lý luận và thực tiễn” của Hội đồng Lý luận Trung ương, số 4(138) tháng 12/2013; tr. 30,32,35,33,34.
         6. Bùi Đình Bôn “Tác động của chiến lược “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch đối với xã họi Việt Nam” – Hà nội, 2004, tr.18.

       3,8. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Nxb CTQG-ST, HN, 2011; Tr. 29, 56.

Thứ Bảy, 7 tháng 3, 2015

Tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân - nguồn sức mạnh nội lực của Đảng


TCCSĐT - Lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh rằng, không phải ngẫu nhiên Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền và cách mạng Việt Nam từng bước giành được những thắng lợi quan trọng, thống nhất Tổ quốc, xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đó chính là vì Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân, luôn củng cố và tăng cường mối liên hệ gắn bó mật thiết với nhân dân.


1. Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, tiên liệu về sự vận động của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc phải tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Từ tác phẩm Đường Cách mệnh (năm 1927), Sửa đổi lối làm việc (năm 1947), Bài nói chuyện trong buổi lễ bế mạc Hội nghị cán bộ của Đảng lần thứ sáu (tháng 01-1949), Đạo đức cách mạng (năm 1958), Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân (tháng 02-1969),… cho đến Di chúc (1965 - 1969), xuyên suốt và nhất quán trong tư tưởng của Người là phải thường xuyên củng cố và tăng cường mối liên hệ này, nhằm nhân lên nguồn sức mạnh nội sinh của Đảng.
Ngay khi vận động thành lập Đảng, viết tác phẩm Đường Cách mệnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Cách mạng Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mạng thành công thì phải lấy dân chúng công nông làm gốc”(1). Trên tinh thần đó và phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam, mùa xuân năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời - đó là kết quả của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lê-nin, phong trào công nhân và phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân ta. 15 năm sau đó, nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của việc “xét về mặt lịch sử, giai cấp nào lãnh đạo được quần chúng nhân dân thì giai cấp đó sẽ chiến thắng” và “cần những Đảng có liên hệ thực tế thường xuyên với quần chúng và biết lãnh đạo những quần chúng đó”(2), với đường lối chiến lược đúng đắn, sách lược mềm dẻo, Đảng ta đã tập hợp quần chúng, tổ chức quần chúng, lãnh đạo họ đấu tranh cách mạng và giành được thắng lợi trong cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, bắt đầu một thời kỳ mới trong lịch sử dân tộc, thời kỳ xây dựng một Nhà nước Việt Nam mới, một thời kỳ nhân dân Việt Nam là chủ nhân của một nước Việt Nam độc lập. Kế thừa và phát huy truyền thống, thấu triệt sâu sắc triết lý, “nước lấy dân làm gốc”, “chở thuyền cũng là dân và lật thuyền cũng là dân”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân vì dân là chủ”(3). Đồng thời khẳng định: “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân... Trong xã hội, không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân” (4), vì “gốc có vững cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”.
Không chỉ khẳng định vai trò của nhân dân trong cách mạng, quyền lợi của người làm chủ nước nhà, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đồng thời nêu rõ, dân chủ không có nghĩa là nhân dân được ban phát những quyền lợi đó và mặc nhiên thụ hưởng; trái lại, chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ, nhưng mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi và thực thi nghĩa vụ của mình. Theo đó, với vai trò cầm quyền, một mặt, Đảng và Chính phủ có trách nhiệm xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội mới; tạo điều kiện, tổ chức thực hiện để nhân dân nâng cao trình độ kiến thức, trình độ chính trị, năng lực làm chủ, tham gia quản lý nhà nước; không để người dân đói, rét,... Mặt khác, phải xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ, đảng viên “đều sẵn lòng cầu tiến bộ, sẵn chí phụng sự nhân dân”, để nhân dân tin yêu, gắn bó. Thực tế, Đảng lãnh đạo nhân dân thông qua Nhà nước và đội ngũ cán bộ, đảng viên “là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành”, nên muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ, đảng viên tốt hay kém.
Là người lãnh đạo, nhưng toàn bộ sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân; từ sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Vì vậy, để phát huy được sức mạnh của mình với vai trò là Đảng lãnh đạo toàn xã hội thì Đảng phải thực hiện tốt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, và quan hệ đó phải được đặt trong mối quan hệ hai chiều. Đó là, Đảng có trách nhiệm trước nhân dân, phục vụ nhân dân và nhân dân có trách nhiệm đối với sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. Chỉ khi nào mối quan hệ đó được phát huy từ cả hai phía Đảng và nhân dân thì sức mạnh của Đảng mới được phát huy dựa trên nền tảng nhân dân. Điều này cho thấy, do nhu cầu của nhân dân trong sự nghiệp giải phóng và xây dựng một cuộc sống ấm no, hạnh phúc, nhân dân rất cần Đảng dẫn đường - chịu sự lãnh đạo của Đảng. Nhưng khi Đảng đã quan liêu, xa dân, “tự đánh mất bản thân mình” thì mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng và nhân dân tan vỡ; sức mạnh và vai trò lãnh đạo của Đảng vì thế cũng không còn. Trong bao năm qua, để xứng đáng vừa là người lãnh đạo sáng suốt, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân, Đảng ta luôn đặc biệt chăm lo củng cố mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân và mối liên hệ này đã góp phần củng cố và tăng cường sức mạnh của Đảng về mọi mặt, làm cho Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh.
Không chỉ quan tâm đến mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn quan tâm đến vai trò lãnh đạo của Đảng với Mặt trận và các đoàn thể của nhân dân. Lãnh đạo nhưng không phải là áp đặt, Đảng phải tự tỏ ra xứng đáng với vai trò của mình: “Đảng không thể đòi hỏi mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình... Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”(5). Sự ra đời, hoạt động và những đóng góp của Mặt trận Việt Minh (năm 1941), Mặt trận Liên Việt (năm 1951), Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (năm 1955), Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (năm 1960) vào thắng lợi chung của sự nghiệp cách mạng Việt Nam là những minh chứng hùng hồn cho một quan điểm nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc nhận thức và phát huy vai trò của nhân dân trong tiến trình đấu tranh cách mạng.
2. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng của người công bộc, trong đó, quyền lực đối với Người chỉ là sự ủy thác của nhân dân và Người đón nhận nó “như một người lính vâng lệnh quốc dân ra mặt trận”. Với tầm nhìn xa, Người đã không chỉ quan tâm đến việc củng cố, tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, mà còn sớm chỉ ra nguy cơ một bộ phận cán bộ, đảng viên “tự đánh mất mình”, rời xa quần chúng; “những người trong lúc tranh đấu thì hăng hái, trung thành... Song đến khi có ít nhiều quyền hạn trong tay thì đâm ra kiêu ngạo, xa xỉ, phạm vào tham ô, lãng phí, quan liêu, không tự giác mà biến thành người có tội với cách mạng”(6). Theo Người, bản chất của Đảng cách mạng chân chính khác với các đảng phái khác chính là ở chỗ “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài”, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phải luôn giữ tư cách của người cách mạng, tận trung với nước, tận hiếu với dân và thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng “như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.
Vì vậy, nếu cán bộ, đảng viên quan liêu, tham nhũng, vô kỷ luật, coi thường phép nước, tự cắt đứt mối liên hệ với quần chúng, sa vào chủ nghĩa cá nhân,… thì họ không còn là “công bộc” mà trở thành “những ông quan phụ mẫu”. Những người như họ đã làm mất niềm tin của nhân dân, làm cho nhân dân xa Đảng, làm mất uy tín, danh dự của Đảng, đe dọa sự sinh tồn của Đảng và chế độ. Thấu hiểu bài học xương máu của các đảng cầm quyền là nguy cơ tự đánh mất mình, mất quần chúng, nhất là khi chiến tranh kết thúc, đường lối của Đảng sẽ quan liêu nếu xa thực tế, không phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Vì vậy, trước khi đi xa, Người dặn lại trong Di chúc: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân…”.
85 năm qua, nhất là ở vào những thời khắc quan trọng của lịch sử, bài học kinh nghiệm về việc thường xuyên, xuyên suốt, nhất quán phải gắn bó mật thiết với nhân dân của Đảng Cộng sản Việt Nam theo những chỉ dẫn của V. Lê-nin và Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Một trong những nguy hiểm lớn nhất và đáng sợ nhất” đối với Đảng là “tự cắt đứt mối liên hệ với quần chúng”(7), “sống trong lòng quần chúng. Biết tâm trạng của quần chúng. Biết tất cả. Hiểu quần chúng. Biết đến với quần chúng, giành được lòng tin tuyệt đối của quần chúng”(8), “dễ mươi lần không dân cũng chịu/Khó trăm lần dân liệu cũng xong”(9) vẫn luôn được Đảng ta thấu triệt và thực hiện. Theo đó, trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do, vì hòa bình, thống nhất đất nước, “Đảng ta có đường lối chính trị đúng đắn được nhân dân ủng hộ, có đội ngũ cán bộ, đảng viên làm tiên phong chiến đấu, gắn bó chặt chẽ với nhân dân đã trở thành nguồn sức mạnh và truyền thống vô cùng quý báu của cách mạng Việt Nam”. Điều này đã được khẳng định trong các Văn kiện của Đảng qua các kỳ Đại hội Đảng. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội, “Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”(10).
Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế đòi hỏi Đảng phải nâng cao năng lực và sức chiến đấu của từng cán bộ, đảng viên và các tổ chức đảng ở cơ sở; phải luôn gắn bó mật thiết với nhân dân để tạo điều kiện phát huy vai trò làm chủ của nhân dân. Để mối liên hệ mật thiết này luôn được củng cố và tăng cường, mỗi cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, đấu tranh với nạn quan liêu, cửa quyền, tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi,… trong các cơ quan Đảng và Nhà nước. Sự cảnh báo nghiêm khắc và những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn vẹn nguyên giá trị thời sự và cần phải được tiếp tục quán triệt và nghiêm túc thực hiện. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được trong công tác xây dựng Đảng, Đảng ta cũng nghiêm túc chỉ ra những nguy cơ làm giảm đi nguồn sức mạnh nội lực của Đảng, làm tan vỡ mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân. Đó là khi cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí chiến đấu, quên đi trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước nhân dân; khi việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các nghị quyết, chỉ thị, quy định về xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở một số nơi chưa đến nơi đến chốn; kỷ cương, kỷ luật không nghiêm, nói không đi đôi với làm, hoặc làm chiếu lệ;…
Trước thực trạng đó, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”đã chỉ rõ: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc...”; chỉ rõ nguyên nhân và đề ra các nhóm giải pháp thực hiện. Trong đó, Nghị quyết cũng đồng thời yêu cầu “mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý kiểm điểm, liên hệ theo chức trách, nhiệm vụ được giao, tự phê bình và phê bình thẳng thắn, dân chủ, nghiêm túc, chân thành, gắn với thực hiện Quy định về những điều đảng viên không được làm, theo cương vị công tác…”. Tiếp đó, Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XI “Về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” không chỉ nhấn mạnh tầm quan trọng của việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đối với công tác xây dựng Đảng, mà còn yêu cầu: “Đưa việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh vào sinh hoạt thường xuyên của tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể. Xây dựng và tổ chức thực hiện tốt chương trình hành động của tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị; chương trình tu dưỡng, rèn luyện của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Lấy kết quả học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là một trong những tiêu chuẩn đánh giá, bình xét, phân loại đảng viên, tổ chức đảng hằng năm”.
Gắn thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về xây dựng Đảng với thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW, triển khai các nhóm giải pháp của Nghị quyết Trung ương 4, các nội dung của Chỉ thị 03-CT/TW; chú trọng thực hiện tự phê bình và phê bình trong Đảng trên tình thương yêu đồng chí lẫn nhau; phát huy vai trò của nhân dân trong xây dựng và chỉnh đốn Đảng, trong tham gia, giám sát việc rèn luyện đạo đức cách mạng theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của đội ngũ cán bộ, đảng viên, công tác xây dựng Đảng đã có bước chuyển biến. Niềm tin của nhân dân với Đảng, mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, giữa đội ngũ cán bộ, đảng viên với quần chúng nhân dân được tăng cường, thiết thực xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh.
Kỷ niệm 85 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm tăng cường hơn nữa mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân - nguồn sức mạnh nội lực của Đảng và đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh để Đảng luôn là đạo đức, là văn minh như Chủ tịch Hồ Chí Minh mong muốn, trước hết, các cấp ủy, tổ chức cơ sở đảng từ trung ương đến địa phương và mỗi cán bộ, đảng viên tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về xây dựng Đảng gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo Chỉ thị 03-CT/TW. Đặc biệt, chú trọng “tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tình trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 10 khóa XI.
Hai là, các cấp ủy, tổ chức đảng quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW và các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác vận động nhân dân, nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa về nhận thức, trách nhiệm và hành động thiết thực của mỗi tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, của cán bộ, đảng viên để đưa các nghị quyết của Đảng vào thực tiễn cuộc sống một cách thiết thực, hiệu quả.
Ba là, Nhà nước, chính quyền các cấp tiếp tục thể chế hóa các quan điểm, chủ trương mới của Đảng về vận động nhân dân thành các văn bản pháp luật. Tăng cường tuyên truyền, vận động cán bộ, công chức, viên chức phải có trách nhiệm với nhân dân; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính. Tăng cường đối thoại, tiếp xúc trực tiếp với nhân dân; thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; tập trung giải quyết kịp thời, có hiệu quả những bức xúc chính đáng của nhân dân; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tầng lớp nhân dân.
Bốn là, tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, theo phương châm hướng về cơ sở, sát cơ sở. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng để mỗi chi bộ thực sự là hạt nhân lãnh đạo, tổ chức thực hiện thắng lợi các chủ trương, nghị quyết, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước ở địa bàn cơ sở.
Năm là, đa dạng hóa các hình thức tập hợp quần chúng; đẩy mạnh và đổi mới phong trào thi đua yêu nước, phong trào thi đua “dân vận khéo” gắn với việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Tổ chức, động viên quần chúng nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; nhân rộng các tấm gương người tốt, việc tốt trong mọi lĩnh vực. Cổ vũ, khuyến khích nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh./.

Tự do phải đặt trong khuôn khổ của pháp luật

QĐND - Gần đây, trên một số trang mạng xã hội, xuất hiện một số người tự xưng là “người yêu tự do”, “nhóm yêu tự do”. Họ cho rằng quyền tự do ở Việt Nam đang bị hạn chế. Có lẽ họ không biết hoặc cố tình không biết về bản chất của tự do chân chính ở bất cứ nhà nước pháp quyền nào cũng đều phải đặt trong khuôn khổ pháp luật; không thể có tự do “vô chính phủ”, muốn làm gì thì làm. Tại Việt Nam, quyền tự do chân chính của người dân được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. 
Nhiều quốc gia trên thế giới hiện nay được tổ chức theo mô hình nhà nước pháp quyền. Bản chất của nhà nước pháp quyền là tính thượng tôn pháp luật. Pháp luật vừa là công cụ quản lý nhà nước hữu hiệu, vừa tạo hành lang pháp lý cho sự phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm quyền tự do của công dân. Quyền tự do của công dân trong nhà nước pháp quyền được bảo đảm bằng pháp luật. Mọi người sống trong nhà nước pháp quyền được tự do trong khuôn khổ của pháp luật.
Nhắc đến quyền tự do của con người, một số người đã trích Công ước nhân quyền châu Âu (Công ước) có hiệu lực từ ngày 3-9-1953, trong đó quy định: “Tất cả mọi người đều có quyền tự do bày tỏ ý kiến. Quyền này bao gồm việc được tự do bày tỏ ý kiến và tự do trao đổi các thông tin mà không cần phải nhận được bất kỳ việc cho phép nào từ phía cơ quan công quyền và không phân biệt biên giới”. Một số người cho rằng, công dân Việt Nam chưa được hưởng quyền này. Thế nhưng họ không biết hoặc cố tình coi như không biết phần tiếp theo của Công ước đã trích dẫn ở trên nhấn mạnh: “Việc thực hiện các quyền nói trên, bao gồm cả các nghĩa vụ và trách nhiệm, hình thức, điều kiện, các hạn chế hoặc các biện pháp trừng phạt cần phải được ghi rõ trong các văn bản pháp luật có cân nhắc đến việc cần thiết đối với một xã hội dân chủ, vì lợi ích đối với an ninh quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, duy trì trật tự công cộng và ngăn ngừa tội phạm, bảo vệ sức khỏe và đạo đức, nhân phẩm hoặc danh dự của con người, ngăn ngừa việc  tán phát các thông tin mật hoặc để bảo đảm quyền lực và tính độc lập của các cơ quan tư pháp”. Như vậy, việc thực thi các quyền tự do đó và các hạn chế được cụ thể hóa trong pháp luật của mỗi quốc gia. Vì mỗi quốc gia đều cân nhắc tình hình thực tế của mình để đưa ra các đạo luật nhằm cụ thể hóa việc thực hiện quyền tự do của công dân.
Nước Mỹ được một số người coi là “hình mẫu của tự do”, nhưng tại Điều 2385 Chương 115-Bộ luật Hình sự Mỹ đã có quy định nghiêm cấm mọi hành vi "in ấn, xuất bản, biên tập, phát thanh, truyền bá, buôn bán, phân phối hoặc trưng bày công khai bất kỳ tài liệu viết hoặc in nào có nội dung vận động, xúi giục hoặc giảng giải về trách nhiệm, sự cần thiết tham vọng hoặc tính đúng đắn của hành vi lật đổ hoặc tiêu diệt bất kỳ chính quyền cấp nào tại Mỹ bằng vũ lực hoặc bạo lực". Theo Hiến pháp Mỹ thì Tòa án tối cao được phép đưa ra những trừng phạt pháp lý khi phát hiện báo chí có hành vi phá hoại, lăng nhục, vu khống, xúc xiểm nhà nước, xã hội và cá nhân. Vì thế, hằng năm có hàng trăm các văn bản lớn nhỏ khác nhau được Tòa án tối cao ban hành để điều hành và kiểm soát báo chí ở Mỹ.
Thực tế không một quốc gia nào trên thế giới coi quyền tự do của con người là tuyệt đối. Bởi lẽ, nếu tự do tuyệt đối thì xã hội sẽ bị loạn khi tự do bắn giết, tự do cướp bóc, tự do hãm hiếp… Quyền tự do của mỗi con người trong từng quốc gia đều được giới hạn trong khuôn khổ pháp luật của mỗi quốc gia đó.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân và vì dân. Quyền tự do của mọi người trên lãnh thổ Việt Nam được bảo đảm bằng pháp luật của Việt Nam. Từ sau ngày đất nước thống nhất (năm 1975) đến nay, quyền tự do, dân chủ của người dân Việt Nam ngày càng được mở rộng phù hợp với luật pháp quốc tế. Hiến pháp năm 2013 đã nâng tầm chế định quyền con người, quyền công dân thành một chương. So với hiến pháp của nhiều quốc gia, Hiến pháp năm 2013 của nước ta thuộc vào những hiến pháp ghi nhận một số lượng cao về quyền con người, trong đó có quyền tự do.  Sự tiến bộ này đã được nhiều học giả trên thế giới ghi nhận. Đặc biệt, Điều 20 và 21 của Hiến pháp năm 2013 quy định rõ, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của mọi người đều được bảo vệ; do đó, đã mở rộng chủ thể và nội dung quyền được bảo vệ về đời tư so với Điều 73 của Hiến pháp năm 1992-chỉ quy định về quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín. Không chỉ củng cố các quyền đã được hiến định trong Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 còn chế định một số quyền mới, như quyền sống (Điều 19); các quyền về nghiên cứu khoa học và công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó (Điều 40); quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa (Điều 41); quyền xác định dân tộc, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp (Điều 42); quyền được sống trong môi trường trong lành (Điều 43); quyền không thể bị trục xuất, giao nộp cho nhà nước khác (khoản 2, Điều 17).
Nếu Hiến pháp năm 1992 chỉ quy định công dân “có quyền được thông tin” (Điều 69), thì Hiến pháp năm 2013, ở Điều 25, thay chữ “được” bằng cụm từ “tiếp cận”. Nhờ quyền tiếp cận thông tin, mọi công dân có thể tiếp cận thông tin, cả về các quyền thực định cũng như về hoạt động tư pháp, để thụ hưởng đầy đủ và bảo vệ các quyền của mình theo Hiến pháp và pháp luật.
Triển khai và cụ thể hóa những nội dung mới của Hiến pháp năm 2013 liên quan đến quyền con người, nhằm nâng cao hơn nữa quyền tự do trong khuôn khổ pháp luật của người dân, Nhà nước ta đang khẩn trương xây dựng một số dự án luật mới như Luật Trưng cầu dân ý, Luật Về hội, Luật Biểu tình, Luật Tiếp cận thông tin... Trong đó, dự án Luật Biểu tình và dự án Luật Trưng cầu dân ý dự kiến sẽ được cho ý kiến tại kỳ họp thứ 9 (tháng 5-2015) và biểu quyết thông qua tại kỳ họp thứ 10 (tháng 10-2015) của nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII. Luật Báo chí dự kiến cũng sẽ được đưa ra sửa đổi tại nhiệm kỳ của Quốc hội này nhằm bảo đảm quyền tự do ngôn luận của người dân trong khuôn khổ của pháp luật.
Như vậy, ở nước ta quyền tự do của người dân đã và đang được Nhà nước tôn trọng và bảo đảm trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật. Trả lời phỏng vấn của Thông tấn xã Việt Nam mới đây, Phối Sư Thượng Tám Thanh-Hội trưởng Hội đồng Chưởng quản Hội Thánh Cao Đài Tây Ninh-nói: "Có thể là do một số nước không nắm được tình hình thực tế về sinh hoạt của các tôn giáo hiện có trên đất nước Việt Nam. Cũng có thể là các nước đó đã nhận được những nguồn tin thiếu trung thực, lệch lạc, khiến họ hiểu sai về thực trạng tự do hoạt động tôn giáo tại Việt Nam". 
Gần đây, khi một số người sử dụng mạng xã hội cũng như những hình thức thông tin khác xuyên tạc sự thật, chống phá Nhà nước và nhân dân ta bị xử lý theo pháp luật, đã có ý kiến trên mạng xã hội cho rằng, việc xử lý đó là vi phạm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng… và lên án gay gắt Điều 258 của Bộ luật Hình sự, đòi bỏ điều này. 
Cần phải khẳng định rằng, Điều 258 Bộ luật Hình sự là hoàn toàn phù hợp với “Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966”. Điều 258 Bộ luật Hình sự quy định những hành vi lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù. Điều luật này ban hành nhằm thực hiện quyền tự do của công dân trong khuôn khổ pháp luật cho phép, tránh những kẻ lợi dụng ý nghĩa của việc “tự do” để thực hiện những ý đồ đen tối, gây ảnh hưởng tới an ninh xã hội. Giả sử Điều 258 được bỏ đi như ý nguyện các nhà tự xưng là “tự do dân chủ” thì xã hội sẽ không thể tồn tại được bởi ai thích nói gì thì nói, có thể nói nhăng nói cuội, vu khống, bịa đặt…
Lẽ tất nhiên, việc hoàn thiện thể chế, mở rộng hơn nữa các quyền tự do dân chủ của nhân dân, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vẫn đang là mục tiêu phấn đấu của chúng ta. Thế nhưng, dù có mở rộng “hết cỡ” các quyền tự do thì sự tự do ấy cũng phải đặt trong khuôn khổ của pháp luật.

Thứ Năm, 8 tháng 1, 2015

Quân đội Việt Nam: Chùm ảnh "Tết của lính"

Vui xuân mới không quên nhiệm vụ-đó là điều được cán bộ, chiến sĩ toàn quân luôn ghi nhớ. Bởi thế, cùng với tổ chức chuẩn bị vui Tết đón xuân chu đáo, công tác canh, trực bảo đảm SSCĐ; bảo đảm an toàn đơn vị và phối hợp với các lực lượng khác giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đóng quân…cũng được cán bộ, chiến sĩ toàn quân quán triệt đầy đủ và thực hiện nghiêm túc… ẢNH: Nhờ tích cực tăng gia sản xuất, Tết này, bữa ăn của cán bộ, chiến sĩ Đoàn 84, Cục Tác chiến điện tử, sẽ thêm đủ đầy.
"Lính thợ" Phân kho 93, Tổng kho 190 (Cục Xăng dầu, Tổng cục Hậu cần) đưa hoa từ vườn về làm đẹp đơn vị trong dịp Tết Nguyên đán.
Tại nhà giàn DK1/20, rau xanh...
...gà cũng có trong "thực đơn" Tết này
Chăm chút cho sắc mai thêm vàng trong Tết Nguyên đán.
Chăm chút cho sắc mai thêm vàng trong Tết Nguyên đán.
Nỗi nhớ nhà dần nguôi ngoai, tình cảm cán-binh ngày càng thắt chặt bên nồi bánh chưng ngày Tết
Vui xuân mới không quên nhiệm vụ! Các tình huống vẫn được đặt ra và luyện tập xử lý thường xuyên. Trong ảnh: Đại đội 1, Tiểu đoàn bộ binh vật cản 93 luyện tập xử lý tình huống A2
...và sẵn sàng cơ động khi có lệnh
Bộ đội Tên lửa bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật luôn ở trạng thái tốt...
...để sẵn sàng xử lý các tình huống xảy ra, kiên quyết không để Tổ quốc bị bất ngờ vì các tình huống trên không.
Công tác phòng chống cháy nổ, bảo đảm an toàn đơn vị, kho xưởng trong dịp Tết nguyên đán Nhâm Thìn 2012 cũng được các đơn vị đặc biệt chú trọng. Trong ảnh: Nhân viên cứu hỏa của Công ty xăng dầu khu vực 1, Tổng công ty xăng dầu quân đội, kiểm tra phương tiện làm nhiệm vụ trực Tết