Thứ Hai, 27 tháng 10, 2014

NHỊP SỐNG TRẺ Noi gương anh hùng Lý Tự Trọng

Tuổi 17, Lý Tự Trọng đã ghi tên mình vào sử sách với câu nói bất hủ: “Con đường của thanh niên chỉ là con đường cách mạng chứ không thể có con đường nào khác”. Lời hiệu triệu ấy đến nay vẫn đặt lên vai người trẻ bao suy tư khi nghĩ về Tổ quốc.
Không chỉ tự hào, đó còn là sự khâm phục và nhiều điều mà thế hệ trẻ hôm nay có thể học được khi nói về anh hùng trẻ tuổi Lý Tự Trọng - một trong những đoàn viên thanh niên cộng sản đầu tiên được Bác Hồ huấn luyện.
Anh Nguyễn Võ Quốc Cao (Nhà Bè) cho rằng bản lĩnh chính trị và một tinh thần thép là điều mà anh thấy nổi bật nhất ở con người Lý Tự Trọng. “Trước khi lên máy chém anh vẫn lạc quan hát vang Quốc tế ca, điều không phải thanh niên nào cũng làm được” - Quốc Cao ngưỡng mộ.
Theo phó hiệu trưởng Trường Đoàn Lý Tự Trọng (TP.HCM) Hà Tài Sáu, lời khẳng định đanh thép “Con đường của thanh niên chỉ là con đường cách mạng chứ không thể có con đường nào khác” của “ông nhỏ” Lý Tự Trọng trước tòa đại hình Pháp 83 năm trước đến nay vẫn được nhiều thế hệ thanh niên VN xem như tuyên ngôn về lập trường sống và chiến đấu của thế hệ trẻ.
“Dù vẫn còn hạn chế nhưng thanh niên hôm nay đã tự tin hơn khi hội nhập với quốc tế, đã biết chia sẻ với cộng đồng, quan tâm đến vận mệnh đất nước, sống có hoài bão và lý tưởng” - anh Sáu nhìn nhận.
Phần nhiều các phát biểu đều chia sẻ rằng hướng người trẻ đến những giá trị tốt đẹp có vai trò rất lớn của tổ chức Đoàn.
Bạn Đỗ Hữu Duy Anh (Q.4) nghĩ rằng để có thể làm những điều lớn hơn, mỗi bạn trẻ hôm nay phải trang bị cho mình một nền tảng vững chắc.
“Đó chính là biết và giữ gìn những giá trị truyền thống của dân tộc, học những điều nhỏ nhất từ anh em quanh mình để tự tin hội nhập quốc tế” - Duy Anh nói.
Nguyên hiệu trưởng Trường Đoàn Lý Tự Trọng Hoàng Đôn Nhật Tân mong muốn làm sao nhiều điển hình tiêu biểu của thanh niên phải đến được với đông đảo giới trẻ.
“Thanh niên luôn có nhu cầu ngưỡng mộ những anh hùng, người tài giỏi nên làm sao để họ tiếp cận được với nhiều tấm gương sáng như thế, họ sẽ được truyền lửa và xây dựng được cho mình lý tưởng sống cao đẹp” - ông Tân chia sẻ.
Anh Quốc Cao nhấn mạnh phải quyết liệt đổi mới cách tuyên truyền của Đoàn, sao cho trực quan sinh động và hấp dẫn người trẻ hơn. “Công tác Đoàn phải đi vào chiều sâu, đừng quá quan tâm số lượng đông đảo bạn trẻ đến với hoạt động, mà cái chính là sau mỗi hoạt động ấy có bao nhiêu bạn trẻ chuyển biến nhận thức và hành động” - anh Cao đề xuất.
Đúc kết tọa đàm, trưởng Ban tuyên giáo Thành đoàn TP.HCM Nguyễn Thị Hương cho rằng mỗi bạn trẻ TP hiểu rõ trách nhiệm thôi chưa đủ mà còn phải biến thành hành động cụ thể.
“Từ hình tượng anh hùng Lý Tự Trọng, từ sự trân trọng dành cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp khi ông ra đi, mong rằng mỗi bạn trẻ TP noi gương bằng cách luôn giữ cho mình suy nghĩ phải tham gia, góp phần vào phát triển kinh tế, xây dựng TP, đất nước phát triển” - chị Hương nói.

“CHỈ THỊ THÀNH LẬP ĐỘI VIỆT NAM TUYÊN TRUYỀN GIẢI PHÓNG QUÂN” SOI SÁNG SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TÍNH NHÂN DÂN CỦA QUÂN ĐỘI TA

CHỈ THỊ THÀNH LẬP
ĐỘI VIỆT NAM TUYÊN TRUYỀN GIẢI PHÓNG QUÂN
SOI SÁNG SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
TÍNH NHÂN DÂN CỦA QUÂN ĐỘI TA

                                                 
                                                          Thượng tá, Ths Nguyễn Việt Hường*[1]
                                                                                 
        Theo chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quân đội cách mạng với tư cách là một tổ chức quân sự, một lực lượng vũ trang của Đảng là: “tuyên truyền”, “chính trị trọng hơn quân sự”[2]. Điều đó có nghĩa là quân đội không thuần tuý thực hiện nhiệm vụ quân sự, mà là một tổ chức vũ trang thực hiện những nhiệm vụ theo yêu cầu của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam. Người giải thích rõ thêm nội dung nhiệm vụ của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân là “đội tuyên truyền”, “một đội quân đầu tiên”. Nhiệm vụ của “đội tuyên truyền”, “đội quân đầu tiên” này phải “dìu dắt…, giúp đỡ…, “huấn luyện”[3] các cán bộ vũ trang ở các địa phương để phát triển lên, làm nòng cốt cho cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện của nhân dân ta; đồng thời còn phải “tuyên truyền”, “vận động” quần chúng nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, thực hiện các nhiệm vụ của cách mạng.
Do điều kiện lịch sử cụ thể của dân tộc quy định, nên khác với hầu hết quân đội các nước xã hội chủ nghĩa, đại đa số quân nhân trong quân đội ta, trước kia cũng như hiện nay đều là con em của nhân dân lao động, chủ yếu là nông dân, sinh ra và lớn lên ở nông thôn. Đó thực sự là một “quân đội nhân dân, do nhân dân đẻ ra”[4] và  “…nhân dân là nền tảng, là cha mẹ của bộ đội”[5]. Vì vậy, quá trình trưởng thành của mỗi quân nhân có những đặc điểm riêng, song đều có cái chung là sự lãnh đạo, giáo dục của Đảng, sự tôi luyện trong tổ chức quân sự và hoạt động quân sự, sự nuôi dưỡng, giáo dục và rèn luyện của nhân dân. Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Phải dựa vào dân", "bám lấy dân", làm sao cho được "dân tin, dân mến, dân yêu"; bộ đội ta thực sự sống trong lòng dân, gắn bó mật thiết với nhân dân như cá với nước. Có thể nói, bản chất và truyền thống của quân đội ta vừa kế tục trung thành, vừa góp phần bồi đắp, phát triển những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc trong quá trình dựng nước và giữ nước.
Suốt 70 năm qua, quân đội ta đã luôn luôn tỏ rõ: “Trung với nước, hiếu với dân”, “Trung với Đảng, hiếu với dân”[6]. Bác Hồ và Đảng ta đã rèn luyện quân đội trở thành quân đội anh hùng của dân tộc Việt Nam anh hùng. Quân đội ta kế thừa và phát triển truyền thống bất khuất hơn bốn nghìn năm của dân tộc, phát huy tinh thần yêu nước chân chính và tinh thần quốc tế vô sản, nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, quyết chiến thắng mọi kẻ thù hung bạo, có tiềm lực lớn. Đảng đã xây dựng thành một Quân đội nhân dân chân chính, một quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân trong điều kiện một nước nông nghiệp lạc hậu, thể hiện đậm nét đặc sắc quân đội mang tính nhân dân. Tính nhân dân của quân đội ta thể hiện rất phong phú, sinh động trong chỉ thị và trong thực tiễn xây dựng chiến đấu, trưởng thành.
Trước hết, tính nhân dân của quân đội ta thể hiện tập trung bởi quân đội là công cụ bạo lực sắc bén của Đảng trong cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc nhằm thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, vấn đề tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân là phẩm chất quan trọng hàng đầu của quân đội ta. Mục tiêu, lý tưởng của Đảng là độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân,  Trung với Đảng là phấn đấu, hy sinh vì mục tiêu, lý tưởng đó. Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội kiểu mới, mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc, đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng cộng sản Việt Nam, được biểu hiện tập trung nhất ở lý tưởng chiến đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân. Đó là lý tưởng mang tính cách mạng và khoa học sâu sắc, thấm đượm bản chất nhân văn cao đẹp, phản ánh đúng đắn quy luật phát triển của xã hội Việt Nam, phù hợp với xu thế của thời đại, đáp ứng khát vọng thiêng liêng tự giải phóng, giành quyền độc lập, tự do, hạnh phúc và vươn lên làm chủ của các thế hệ người Việt Nam trong suốt hành trình lịch sử dân tộc.
Lý tưởng chiến đấu của quân đội ta kết tinh ý Đảng, lòng dân, đồng thời biểu hiện tình cảm sâu nặng và trách nhiệm chính trị - đạo đức của quân đội đối với Đảng, Tổ quốc và nhân dân; định hướng cho thái độ và hành động của cán bộ, chiến sĩ quân đội, cổ vũ tính tích cực xã hội của mỗi quân nhân để chủ động, tự giác rèn luyện, phấn đấu thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ. Lý tưởng chiến đấu đó là yếu tố cốt lõi nhất, quyết định nhất trong bản chất của quân đội ta, tạo nên sự đoàn kết, gắn bó máu thịt giữa quân đội với nhân dân, xây đắp nên tính nhân dân của quân đội ta bằng biểu tượng "Bộ đội Cụ Hồ".
Thứ hai, tính nhân dân của quân đội có cơ sở xuất phát của quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, một quân đội của dân, do dân, vì dân. Hiếu với dân cũng là phẩm chất quan trọng hàng đầu của Quân đội nhân dân Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Quân với dân như cá với nước, đoàn kết một lòng, học hỏi, giúp đỡ lẫn nhau, nhân dân là "nền tảng", là "cha mẹ" của bộ đội”[7]. Trong quan hệ "cha mẹ - con cháu", chữ hiếu bao giờ cũng là giá trị cao nhất, cơ bản nhất, xuyên suốt của đạo con cháu. Tội lớn nhất của con cháu đối với cha mẹ là tội bất hiếu. Phẩm chất hiếu với dân của quân đội ta không chỉ do quân đội được sinh ra và lớn lên từ nhân dân, trong lòng nhân dân, mà còn được quy định bởi sự thống nhất về mục tiêu, lý tưởng của nhân dân và quân đội. Ngoài lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, quân đội không có mục đích tự thân nào khác. Bao trùm nhất của lòng hiếu với dân của quân đội ta là: "vì nhân dân chiến đấu, vì nhân dân phục vụ", vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Đó vừa là mục tiêu chiến đấu, vừa là phương châm hành động của tất cả cán bộ, chiến sĩ quân đội ta.
      Phẩm chất cao đẹp hiếu với dân của quân đội ta nói lên tính chất nhân dân của quân đội cách mạng, khác hẳn về chất so với quân đội làm công cụ cho giai cấp bóc lột, quân đội đánh thuê của chủ nghĩa đế quốc đứng ngoài, thậm chí đối lập với nhân dân. Chỉ có quân đội cách mạng mới có thể có đầy đủ nguồn sức mạnh từ nhân dân, nguồn sức mạnh vô tận, không bao giờ cạn kiệt, bảo đảm sự trưởng thành và chiến thắng của quân đội ta, thể hiện ưu thế hơn hẳn so với quân đội của chủ nghĩa đế quốc. Chính vì vậy, tăng cường mối quan hệ quân - dân luôn luôn là yêu cầu cơ bản của việc xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam trong tất cả các giai đoạn cách mạng; đồng thời đó còn là đòi hỏi của việc không ngừng củng cố, bồi đắp phẩm chất hiếu với dân của quân đội. Hiếu với dân không chỉ biểu hiện ở những thành tích huy hoàng của quân đội trong chiến đấu chống kẻ thù của đất nước, của nhân dân, mà còn biểu hiện ở tình cảm "thương yêu dân", ở hành động giúp đỡ dân, bảo vệ dân, tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với dân, không đụng đến "cái kim, sợi chỉ" của nhân dân... được nhân dân yêu mến, tin tưởng, "đi dân nhớ, ở dân thương".
Thứ ba, tính nhân dân của quân đội ta còn được thể hiện sâu sắc trong quá trình thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của quân đội. Với chức năng là đội quân chiến đấu, quân đội ta thực sự làm nòng cốt cùng toàn dân đánh giặc, hỗ trợ tích cực cho đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang của quần chúng nhân dân, chiến đấu ngoan cường, dũng cảm để giải phóng và bảo vệ đất nước, xả thân hy sinh để bảo vệ tính mạng, tài sản và hạnh phúc của nhân dân. Đồng thời sức mạnh chiến đấu của quân đội ta dựa chắc trên cơ sở sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân. Nhân dân luôn hết lòng cưu mang, đùm bọc, che chở cán bộ, chiến sĩ quân đội; cung cấp sức người, sức của, nuôi dưỡng tinh thần quyết chiến, quyết thắng, cùng bộ đội đánh giặc, giải phóng quê hương, bảo vệ  biên giới, biển - đảo chủ quyền thiêng liêng Tổ quốc. Quân đội ta tích cực tham gia phát triển kinh tế - xã hội gắn với củng cố quốc phòng - an ninh, xung kích đến vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn, gian khổ để xây đựng các khu kinh tế - quốc phòng, các công trình có ý nghĩa chiến lược của đất nước.
     Trong công tác dân vận quân đội ta luôn gắn bó mật thiết, đồng cam cộng khổ với nhân dân, thực sự là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân; góp phần quan trọng vào việc tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, các chủ trương, biện pháp phát triển kinh tế-xã hội của địa phương; tham gia xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, giữ vững ổn định chính trị của đất nước. Chính trong hoạt động dân vận, bám nắm địa bàn, bộ đội cùng nhân dân kịp thời phát hiện và đấu tranh làm thất bại nhiều âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Khi có những vấn đề phức tạp nảy sinh, bộ đội phối hợp chặt chẽ với cáp ủy, chính quyền, đoàn thể và nhân dân xử lý đúng đắn, có hiệu quả tình huống, ổn định tình hình. Thông qua công tác dân vận và thực hiện nghiêm túc 12 điều kỷ luật dân vận, những phẩm chất tốt đẹp của "Bộ đội Cụ Hồ" tiếp tục được bồi dưỡng, rèn luyện và kiểm nghiệm nghiêm ngặt, được tỏa sáng trong lòng nhân dân. Quân đội ta cũng là lực lượng xung kích trong cứu hộ, cứu nạn, giúp dân phòng chống và khắc phục hậu quả thiên tai, hỏa hoạn; nhiều đồng chí quên mình xả thân trong hiểm nguy để cứu tính mạng và bảo vệ tài sản của nhân dân.  
   Trải qua bảy thập kỷ, học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong quá trình xây dựng, chiến đấu và công tác, thành phần xuất thân của đa số quân nhân, từ buổi đầu thành lập cho đến bây giờ, chủ yếu là nông dân, nhưng quân đội ta luôn luôn giữ vững và không ngừng phát triển bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân của mình, thực sự là quân đội của dân, do dân, vì dân. Trong suốt chặng đường xây dựng và trưởng thành, quân đội ta luôn xứng đáng là công cụ bạo lực sắc bén, là lực lượng chính trị tin cậy, tuyệt đối trung thành của Đảng, Tổ quốc và nhân dân, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ chính trị mà Đảng, Tổ quốc và nhân dân giao phó.
      Đối với nước ta hiện nay, các thế lực thù địch vẫn ráo riết đẩy mạnh chiến lược "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ, ra sức lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền chống phá độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Chúng tập trung phủ nhận nền tảng tư tưởng, đường lối, quan điểm và sự lãnh đạo của Đảng; mưu toan "phi chính trị hóa" quân đội, chia rẽ Đảng và quân đội với nhân dân, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Bên cạnh đó, những tiêu cực trong xã hội, như nạn tham nhũng, tệ quan liêu, sự suy thoái về chính trị- tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên và những tệ nạn xã hội khác, có tác động tiêu cực không nhỏ đến nhận thức, tình cảm và lòng tin của nhân dân. Vì vậy, việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, củng cố quan hệ máu thịt giữa quân đội với nhân dân, bồi đắp tính nhân dân của quân đội là một nội dung có ý nghĩa chiến lược, mang tính cấp thiết hiện nay./.
     
 




[1]* Chủ nhiệm Bộ môn, Khoa Triết học Mác - Lênin    
[2] Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 3, Nxb CTQG, H. 2009, tr 507
[3] Sđ d, tr. 507
[4] Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H. 2009, tr 392-393
[5]Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H. 2009, tr 392-393
[6] Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 11, Nxb CTQG, H.2000, tr.350

[7] Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H. 2009, tr 392-393

Thứ Tư, 24 tháng 9, 2014

Không quân Hải quân Việt Nam: Pháo đài bất khả xâm phạm


Lê Trọng Tấn: vị tướng chỉ huy xuất sắc của quân đội ta

Đại tướng Lê Trọng Tấn (1-10-1914 – 5-12-1986) tên thật là Lê Trọng Tố, bí danh Ba Long (khi ở chiến trường miền Nam), sinh ra trong một gia đình trí thức có truyền thống cách mạng tại xã Yên Nghĩa, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây (nay thuộc quận Hà Đông, Hà Nội).
Năm 1944, ông tham gia Việt Minh, được phân công làm công tác địch vận tại khu vực Hoàng Mai-Hà Nội. Tháng 3-1945, ông là thành viên trong Ủy ban chuẩn bị khởi nghĩa tỉnh Hà Đông, được cử về tuyên truyền, tổ chức và xây dựng lực lượng vũ trang tại Ứng Hòa, La Khê, La Cả (Hà Đông). Tháng 8-1945, ông tham gia Ủy ban khởi nghĩa Hà Đông, phụ trách quân sự.
Tháng 12-1945, ông được kết nạp vào Đảng. Trong những ngày đầu Toàn quốc kháng chiến, ông chỉ huy Tiểu đoàn 60, Trung đoàn 37 chiến đấu tại mặt trận Hà Đông, một cửa ngõ quan trọng phía Tây Thủ đô. Ông tổ chức diệt đồn Đồng Quan và giành thắng lợi trận đầu tiên.  Ngày 23-8-1947, ông được phân công làm Khu trưởng Khu 13 khi đang giữ chức Trung đoàn trưởng Trung đoàn Sơn Tây.
Ngày 25-1-1948, ông được bổ nhiệm làm Phó Chủ tịch Khu 10. Năm 1949, theo quyết định của Bộ Tổng chỉ huy, Trung đoàn 209 chủ lực đầu tiên của Liên khu 10 chuyển thành trung đoàn mạnh, trực thuộc Bộ, mang danh hiệu Trung đoàn Sông Lô. Khi đó ông là Phó Tư lệnh Liên khu 10 được bổ nhiệm là Trung đoàn trưởng kiêm Chính ủy đầu tiên.
Ngày 27-12-1950, Đại đoàn 312 (Đại đoàn Chiến Thắng) được thành lập, ông là Đại đoàn trưởng kiêm Chính ủy đầu tiên, khi 36 tuổi. Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử, Đại đoàn 312 do ông chỉ huy đánh trận mở đầu thắng lợi vào cứ điểm Him Lam ngày 13-3-1954.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ngày 24-10-1973, Quân đoàn 1 (Binh đoàn Quyết Thắng), binh đoàn chủ lực cơ động đầu tiên của Quân đội ta (bao gồm cả Sư đoàn 312) được thành lập. Thiếu tướng Lê Trọng Tấn được chỉ định là Tư lệnh đầu tiên.
Đại tướng Lê Trọng Tấn là vị tướng trận mạc, ông luôn có mặt ở những chiến trường gai góc, ác liệt và nóng bỏng nhất, có khả năng làm xoay chuyển cục diện trận đánh, trăm trận trăm thắng. Các nhà khoa học quân sự và quân đội các nước anh em kính nể, học tập ông về tài năng, đức độ và tầm nhìn chiến lược, chiến thuật, nghệ thuật quân sự xuất sắc. Các cán bộ, chiến sĩ yêu mến gọi ông là “Giu Cốp của Việt Nam”, luôn đoàn kết, một lòng tin tưởng vào tài năng, đức độ, thông minh, sáng tạo, nhanh nhạy, quyết đoán của mình.
Năm 1973, trong một buổi gặp gỡ với các tướng lĩnh Việt Nam, Chủ tịch Cu Ba Phiđen Caxtrô bắt tay tướng Lê Trọng Tấn rồi tươi cười hỏi mọi người xung quanh: “Đây có phải là vị tướng đánh hay nhất Việt Nam phải không ?”. Đại tướng Võ Nguyên Giáp vui vẻ trả lời: “Đúng, đây là một trong những vị tướng giỏi nhất Việt Nam qua các thời đại”. Tại cuộc Hội thảo kỷ niệm 10 năm ngày mất Đại tướng Lê Trọng Tấn (tháng 12-1996), Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Người Anh Cả của Quân đội ta đánh giá tướng Tấn xứng đáng “hai lần anh hùng”(1) do đã chỉ huy quân xuất sắc bắt sống tướng Đờ Cát ở Điện Biên Phủ (năm 1954) và bắt sống nội các Sài Gòn (năm 1975).
Suốt cuộc đời hoạt động liên tục và vô cùng sôi nổi, Đại tướng Lê Trọng Tấn đã đảm nhiệm các chức trách: Từ 12-1954 đến 1960, Hiệu trưởng Trường Sĩ quan Lục quân; tháng 3-1961 đến 1962, là Phó Tổng tham mưu trưởng, trực tiếp là Tư lệnh Mặt trận đường 9 (1971); năm 1972, là Tư lệnh Chiến dịch Trị Thiên; năm 1973 là Phó Tổng tham mưu trưởng kiêm Tư lệnh Quân đoàn 1; tháng 3-1975, là Tư lệnh Chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng, Chỉ huy cánh quân phía Đông đánh thẳng vào Sài Gòn; tháng 4-1975, là Phó Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh; từ 1976 đến 2-1977, ông được cử làm Giám đốc Học viện Quân sự cấp cao (nay là Học viện Quốc phòng); từ 12-1978 đến 2-1979, ông được Bộ Chính trị cử trực tiếp Chỉ huy các lực lượng vũ trang nhân dân trong Chiến tranh biên giới Tây Nam; từ 6-1978 đến 1986, ông là Thứ Trưởng Bộ Quốc phòng, là Tổng Tham mưu trưởng, Ủy viên Thường vụ Đảng uỷ Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương). Là Ủy viên Trung ương Đảng các khoá IV, V; Đại biểu Quốc hội khoá VII.
Ông là Tư lệnh của những chiến dịch lớn có tính chất quyết định trên các chiến trường: Bình Giã, Đồng Xoài, Bàu Bàng - Dầu Tiếng, Đường 9 Nam Lào, Mặt trận Trị Thiên (B5); Tư lệnh chiến dịch Huế - Đà Nẵng, Tư lệnh cánh quân Duyên Hải (do chính ông đề xuất thành lập) tiến vào Sài Gòn sớm nhất vào Mùa xuân 1975; Chiến dịch biên giới Tây Nam 1978 - 1979 và biên giới phía Bắc 2-1979…
Trên các cương vị công tác, Đại tướng đã mang hết tài năng và nghị lực phấn đấu thực hiện thắng lợi đường lối, nhiệm vụ chính trị, quân sự của Đảng, đồng thời có nhiều đóng góp trong phát triển sáng tạo nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Đại tướng Lê Trọng Tấn luôn coi trọng rèn luyện đạo đức, lối sống và tác phong công tác của người chỉ huy, thường xuyên căn dặn đội ngũ cán bộ chỉ huy các cấp phải xây dựng tác phong làm việc thực tế, sâu sát, nghiêm túc, chính xác, khẩn trương; phát huy tốt dân chủ, đoàn kết và kỷ luật, thật sự bình đẳng về chính trị với chiến sĩ, hết lòng thương yêu, dìu dắt, giúp đỡ đồng chí đồng đội cùng tiến bộ, trưởng thành.
Đồng chí luôn là tấm gương mẫu mực về nếp sống giản dị, khiêm tốn, gần gũi, chân thành với đồng chí đồng đội; tiêu biểu cho tác phong công tác của người cán bộ chỉ huy. Đồng chí đã nêu gương sáng về lòng trung thành vô hạn đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, Tổ quốc, nhân dân; về lập trường giai cấp kiên định vững vàng, tinh thần cách mạng triệt để, không lùi bước trước mọi nguy hiểm, khó khăn.  
 Tấm gương vị tướng vẫn đồng hành cùng công cuộc xây dựng Quân đội của dân, do dân và vì nhân dân: “Cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong tình hình mới. 

Những toan tính của Trung Quốc khi hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương - 981 trên vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam

 Việc Trung Quốc bất chấp luật pháp quốc tế, ngang ngược đặt trái phép giàn khoan Hải Dương-981 (15 độ 29’58” vĩ bắc - 111 độ 12’06” kinh đông) nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam đang đẩy Trung Quốc vào con đường tự cô lập về ngoại giao và nguy cơ quân sự đầy nguy hiểm. Tại sao Trung Quốc có thể ngang ngược “làm càn” và tỏ ra hung hăng trên Biển Đông bất chấp những lời chỉ trích và lên án mạnh mẽ của dư luận thế giới? Âm mưu của Trung Quốc là gì?
1. Lựa chọn thời điểm
Đây là sự kiện nằm trong chuỗi những hành động mà Bắc Kinh đã có sự chuẩn bị kỹ lưỡng: gây hấn với Malaysia ở bãi ngầm James Shoal, với Philippin ở Bãi Cỏ Mây…. Trung Quốc âm mưu tiến thêm một bước trong việc hiện thực hóa ''đường lưỡi bò'' và đòi hỏi chủ quyền vô lý của họ.Việc hạ dặt trái phép giàn khoan HD-981 tại vùng biển của Việt Nam trùng hợp với nhiều sự kiện đáng chú ý của thế giới: sau chuyến thăm của Tổng thống Mỹ Barack Obama tới các nước châu Á với những tuyên bố mạnh mẽ ở Malaysia và Philippin liên quan tới Biển Đông;các thế lực lớn đang bận rộn với điểm nóng Ucraina…
Tình hình hiện tại cho thấy việc Trung Quốc lựa chọn thời điểm đặt giàn khoan 981 trái phép trên vùng biển của Việt Nam là một toan tính.
Với nước Mỹ, Trung Quốc cho rằng quyền lực toàn cầu của Mỹ đang ngày càng suy giảm. Bắc Kinh rút ra kết luận này từ một loạt những thất bại về an ninh quốc gia của Mỹ: việc rút quân quá sớm ở Irăc, sa lầy ở Ápganixtan, không kiểm soát được chính quyền Libi và bất lực trước sự trỗi dậy của Al Qaeda ở Yemen… Không những thế, Bắc Kinh còn cho rằng Washington không thể nào hóa giải nổi Pakistan, “người bạn-thù” của Mỹ và hiện nay gần như đã là một đồng minh của Trung Quốc. Họ cũng nhận định chính sách can thiệp của Mỹ ở khu vực Trung Đông đã thất bại trước sự trỗi dậy của chủ nghĩa khủng bố và phong trào Mùa xuân Arập. Với những nhận định đó, Trung Quốc cho rằng: Biển Đông sẽ dễ dàng rơi vào tay họ. Hiện tại Ucraina đang là điểm nóng cần ưu tiên trước nhất của Mỹ. Bởi nó ảnh hưởng đến an nguy trực tiếp của các đồng minh lâu đời, thân cận nhất của Mỹ: các nước Bắc Âu, liên minh quân sự NATO. Với vấn đề Đông Bắc Á, Nhật Bản, Hàn Quốc sẽ chưa thể bị Trung Quốc gây khó dễ ngay.
Với nước Nga, Mátxcơva đang đứng trước thách thức lớn lao nền kinh tế bị trừng phạt nặng nề bởi Mỹ và châu Âu sau khi sáp nhập Crưm vào Nga. Để đối phó với Mỹ và Tây Âu, giảm thiểu sự tác động của các đòn trừng phạt, Nga chú trọng đặt quan hệ với Trung Quốc. Khi bán đảo Crưm tổ chức cuộc trưng cầu dân ý sáp nhập vào Nga, Trung Quốc bày tỏ thái độ trung lập (bỏ phiếu trắng tại Liên Hợp quốc). Trung Quốc bất chấp dư luận để trở nên hung hăng hơn ở Biển Đông sau khi có quan hệ chặt chẽ hơn với một đồng minh mới là Nga.
Về phía Nhật Bản, quốc gia đang có tranh chấp trên biển với Trung Quốc, cũng là quốc gia có những quan điểm cứng rắn và thực lực kinh tế, quốc phòng mạnh nhất của khu vực châu Á trong đòi hỏi chủ quyền với Trung Quốc, hiện đang lâm vào tình hình suy yếu tương đối. Vị trí cường quốc kinh tế thứ hai thế giới của Nhật Bản đã bị Trung Quốc truất ngôi năm 2012. Mặt khác, dưới tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, đặc biệt là cuộc khủng hoảng kép động đất, sóng thần dẫn tới rò rỉ nhà máy điện hạt nhân, Nhật Bản đang gặp rất nhiều khó khăn.
Các quốc gia trong khối ASEAN tuy đã biểu lộ sự thống nhất, song vẫn tiềm ẩn bất đồng, chia rẽ.Thái Lan, một thành viên quan trọng trong khối ASEAN, lại đang trong tình trạng khủng hoảng chính trị kéo dài, mà chưa có hồi kết.
Trung Quốc cho rằng nếu không làm nhanh, sau này họ sẽ gặp nhiều khó khăn khi các quốc gia ASEAN tìm kiếm được sự đồng thuận, đoàn kết hoặc sẽ nhận được nhiều sự giúp đỡ về quốc phòng hơn từ phía Mỹ.
Đối với Việt Nam, đang trong dịp nghỉ lễ dài ngày (30-4; 1-5); tổ chức các sự kiện trọng đại: kỷ niệm những chiến thắng 30-4-1975, chiến thắng Điện Biên Phủ 7-5-1954… đã bị bất ngờ, khó đối phó kịp việc Trung Quốc lựa chọn thời điểm đặt giàn khoan
2. Một mũi tên nhằm nhiều đích
Trung Quốc là cường quốc đang trỗi dậy, với tham vọng trở thành bá chủ mới trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Biển Đông được cho là chìa khóa của chiến lược này. Đây là lý do quan trọng khiến Bắc Kinh đưa ra yêu sách chủ quyền với gần như toàn bộ vùng biển, đồng thời không ngừng có các hành vi nhằm thay đổi hiện trạng tại đây.
Trung Quốc đang gặp nhiều vấn đề căng thẳng, đặc biệt là Tân Cương, Tây Tạng…, họ cần có một đòn bẩy để kích hoạt sự đoàn kết dân tộc và chủ nghĩa đại Hán vốn đã ăn sâu vào tiềm thức của người cầm quyền Trung Quốc. Gây xung đột với chiêu bài tự vệ còn nhằm đẩy sự quan tâm vào những căng thẳng, mâu thuẫn trong nước ra bên ngoài.
Bên cạnh đó, Trung Quốc còn đặt một phép thử mới. Bắc Kinh đòi hỏi chủ quyền “đường lưỡi bò” sở hữu 80% diện tích Biển Đông. Để đạt được mục đích, Trung Quốc đã tiến hành một loạt các hành động như:gây hấn với Malaysia ở bãi ngầm James Shoal, hay với Philippin ở bãi cạn Scarborough, bắn tàu cá ngư dân, cắt cáp thăm dò, cấm đánh bắt cá với Việt Nam… Việc đặt giàn khoan vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam mới là một bước đi tiếp theo. Việt Nam đang đứng trước thách thức vô cùng nghiêm trọng, không chỉ là toàn vẹn lãnh thổ mà còn là hòa bình chung cho cả Biển Đông.
Hành động lần này là những bước đi của tham vọng bành trướng nước lớn, không xa lạ đối với Việt Nam. Trong tình hình hiện nay, chúng ta cần tỉnh táo, sáng suốt để không mắc phải mưu đồ thâm hiểm của Trung Quốc. Trước hết, Việt Nam cần hết sức cảnh giác với thủ đoạn “giương đông, kích tây”, “bỏ hư đánh thực” của Trung Quốc. Bên cạnh việc đấu tranh để Trung Quốc rút giàn khoan 981, cần rất cảnh giác và đấu tranh quyết liệt với những động thái khác trên Biển Đông. Trong thời gian gần đây, Trung Quốc đang cố gắng xây dựng nhiều các công trình trên các công trình mà Việt Nam có chủ quyền. Trung Quốc muốn cho dư luận biết rằng không chỉ đánh chiếm, mà còn chiếm giữ trên thực tế. Điều này cũng tương tự như sự kiện ngày 19/7/2012, Quân ủy Trung ương Trung Quốc chính thức quyết định thành lập “Cơ quan chỉ huy quân sự” của cái gọi là “thành phố Tam Sa”, đặt căn cứ trên đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam, và việc ngày 21-7-2012 Trung Quốc tổ chức bầu cử đại biểu Đại hội đại biểu Nhân dân khóa I “thành phố Tam Sa”.
Bên cạnh đó, cần cảnh giác và có hành động quyết liệt, khôn khéo với những âm mưu hành động của các thế lực phản động tạo ra những vụ bạo động, quá khích của công nhân các khu công nghiệp trong những cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc đặt giàn khoan 981 làm xấu hình ảnh của Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài, phương hại đến các lợi ích kinh tế đất nước.
Theo thống kê của các cơ quan quản lý nhà nước, đã có hơn 150 website của Việt Nam bị tấn công, tất cả website này đều đã bị tin tặc kiểm soát. Hacker Trung Quốc đã để lại lời tuyên bố chính những xung đột trên Biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc là nguyên nhân của vụ tấn công này. Một số chuyên gia an ninh cho rằng nguyên nhân của vụ tấn công hàng loạt website Việt Nam lần này là do trước đó nhiều hacker Việt Nam đã thực hiện tấn công từ chối dịch vụ (DDoS) các website Trung Quốc để thể hiện sự bất bình trước hành động đặt giàn khoan 981 trái phép vào thềm lục địa Việt Nam. Trước những căng thẳng tiếp tục leo thang giữa hai bên, Việt Nam phải có những bước chuẩn bị kỹ lưỡng để ứng phó với mọi tình huống.
Theo các chuyên gia quốc tế, vùng biển gần quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam mà Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan chưa phát hiện có dầu mỏ. Điều này cho thấy, mục đích thực sự của Trung Quốc chưa phải vì lợi ích dầu mỏ tại đây khi xâm phạm trái phép vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam. Sâu sa hơn cả, Bắc Kinh hiện muốn gây sức ép lớn nhất có thể lên các nước láng giềng, nhằm tối đa hóa phạm vi vùng biển mà nước này mưu đồ muốn kiểm soát trong tương lai. Việc đặt trái phép giàn khoan vào vùng biển Việt Nam cho Bắc Kinh cơ hội để đo lường, kiểm chứng những phản ứng quốc tế về những tuyên bố về vùng lãnh hải của họ. Bên cạnh đó, Trung Quốc rất muốn Việt Nam có phản ứng vượt giới hạn, sa vào bẫy của họ.Thêm nữa, trước khi Trung Quốc có thể bắt đầu “thử lửa” với các đồng minh của Mỹ trong khu vực, như Philippin - nước vừa ký một thỏa thuận quốc phòng mới thời hạn 10 năm Mỹ, Trung Quốc muốn biết Mỹ có muốn bảo vệ lợi ích của họ trong khu vực này hay không?...
Như vậy, Trung Quốc có quá nhiều toan tính trong bước đi mạo hiểm trên Biển Đông khi hạ đặt trái phép giàn khoan 981 trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, rõ ràng động thái này của Trung Quốc đã trực tiếp liên quan đến nhiều quốc gia và khu vực. Đối với Trung Quốc thì đó có thể là mũi tên trúng nhiều đích, trong khi đó có lẽ họ chưa lường hết được hệ lụy của nó.
3. Những hệ quả khó lường
Trung Quốc đang bị lóa mắt bởi giấc mơ “trỗi dậy” của mình, bởi lòng tự hào của một nước lớn, một cường quốc bởi những thành tựu kinh tế mà họ đạt được. Điều đó đồng nghĩa với việc họ đang đi trên con đường tự cô lập mình về mọi mặt bởi những hành động ngang ngược, bất chấp luật pháp và thông lệ quốc tế.
Bắc Kinh đã cảm nhận được phản ứng mạnh mẽ, quyết liệt của Việt Nam nhằm bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Lịch sử đã chứng minh, dân tộc Việt Nam không khuất phục bất cứ một thế lực xâm lược nào, sẵn sàng hy sinh tất cả để bảo vệ nền độc lập của dân tộc, chủ quyền quốc gia. Việt Nam kiên quyết phản đối các hành động vi phạm và bằng mọi biện pháp cần thiết, phù hợp với louật pháp quốc tế để bảo vệ chủ quyền và lợi ích chính đáng của mình. Thực tế là trong suốt thời gian Trung Quốc gây hấn về vấn đề Biển Đông, Việt Nam luôn thực hiện đường lối ngoại giaohoàn bình, phù hợp với luật pháp và quan hệ quốc tế.
Bắc Kinh cũng không tính trước được rằng những hành động tráo trở, hung hăng của mình trong khu vực sẽ khiến các quốc gia ASEAN xích lại gần nhau hơn để chống lại tham vọng của Trung Quốc. Đó cũng là cơ hội để Mỹ và nhiều nước lớn khác tăng cường sự hiện diện ở biển Đông. Gần nhất, Nhật Bản đang tăng cường sức mạnh quân sự và có thể đưa quân ra nước ngoài.

Đấu tranh chống các quan điểm, tư tưởng sai trái để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới

Hiện nay, các thế lực thù địch đang ráo riết, đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, tấn công trên mặt trận tư tưởng, văn hóa hòng làm suy giảm niềm tin, gây hỗn loạn về lý luận và tư tưởng. Một trong những vấn đề chúng tập trung chống phá là tách rời mối quan hệ biện chứng giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lê-nin, từ đó tiến tới phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.


Bản chất cách mạng, khoa học và sức sống của nghĩa Mác - Lê-nin
Thực tế đã và đang khẳng định rằng, chủ nghĩa Mác - Lê-nin từ khi ra đời đến nay đã thể hiện rõ bản chất khoa học và cách mạng, giá trị và sức sống bền vững của nó. Nhiều chính khách, nhà khoa học ở cả trong và ngoài nước có nh÷ng bài nói, bài viết, công trình nghiên cứu khoa học khẳng định chủ nghĩa Mác - Lê-nin vẫn giữ nguyên ý nghĩa và tầm quan trọng trong bối cảnh hiện nay. Một số học giả tư sản đã thừa nhận, tinh thần của C. Mác vẫn tỏa sáng và dù muốn hay không người ta vẫn phải dựa vào C. Mác mới có thể phân tích đúng chủ nghĩa tư bản đương đại.
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá một cách khách quan, chính xác, đầy đủ và sâu sắc vai trò của chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong quá trình cách mạng Việt Nam. Vào năm 1927, Hồ Chí Minh đã viết: “…Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lê-nin”(1). Theo Người, chủ nghĩa Mác - Lê-nin không những là kim chỉ nam mà còn là “mặt trời soi sáng” con đường chúng ta đi đến thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Trả lời phỏng vấn nhà báo Pháp Sác-lơ Phuốc-ni-ô ngày 15-7-1969, Hồ Chí Minh khẳng định: “Chúng tôi giành được thắng lợi là do nhiều nhân tố, nhưng cần phải nhấn mạnh rằng… chúng tôi giành được những thắng lợi đó trước hết là nhờ cái vũ khí không gì thay thế được là chủ nghĩa Mác - Lê-nin”(2).
Nghiên cứu lịch sử hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta thấy rõ con đường Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin và Người đã nghiên cứu, học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin một cách cơ bản, hệ thống. Ngày 12-7-1946, trả lời trong cuộc họp báo tại biệt thự Roa-yan Mông-xô, Hồ Chí Minh đã nói: “Tất cả mọi người đều có quyền nghiên cứu một chủ nghĩa. Riêng tôi, tôi đã nghiên cứu chủ nghĩa Các Mác”(3). Hồ Chí Minh không bao giờ “tách mình” ra khỏi C. Mác, Ph. Ăng-ghen và V.I. Lê-nin để đưa ra các quan điểm riêng mà như Người nói là “cố gắng vận dụng” tư tưởng của các nhà kinh điển đó, “nhưng vận dụng một cách sáng tạo phù hợp với thực tiễn Việt Nam”.
Trong bài “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lê-nin”, Hồ Chí Minh đã nói rằng: trước khi đến với chủ nghĩa Lê-nin, “tôi ủng hộ Cách mạng Tháng Mười chỉ là theo cảm tính tự nhiên”, tham gia Đảng Xã hội Pháp vì họ ủng hộ cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức, còn “Đảng là gì, công đoàn là gì, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là gì thì tôi không hiểu”. Nhưng “từng bước một, trong cuộc đấu tranh vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lê-nin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”(4).
Hồ Chí Minh không chỉ tự học mà đã học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong nhà trường cách mạng. Vào khoảng cuối năm 1924, Hồ Chí Minh đã vào học lớp ngắn hạn của Trường Đại học Phương Đông ở Mát-xcơ-va. Trong thời gian học, khi biết tin V.I. Lê-nin mất, Người đã cùng học sinh của trường đi viếng và Người đã viết bài “V.I. Lê-nin và các dân tộc thuộc địa”. Từ tháng 10-1934 đến cuối tháng 9-1938 (với bí danh Lin), Hồ Chí Minh đã học ở Trường Quốc tế Lê-nin, là nghiên cứu sinh tại Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa. Người đã chuẩn bị tài liệu để viết luận án về đề tài tự chọn “Cách mạng ruộng đất ở Đông Nam châu Á”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh - kết quả sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam
Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là nguồn gốc lý luận chủ yếu quyết định sự hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Trước hết, chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã cung cấp cho Hồ Chí Minh thế giới quan, phương pháp luận khoa học, những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; đồng thời, đặt “hòn đá tảng” những vấn đề có tính nguyên tắc về lập trường quan điểm, về tinh thần xử lý mọi việc. Những phạm trù cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh cũng nằm trong những phạm trù cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Trên cơ sở nắm vững và quán triệt sâu sắc lập trường, quan điểm và phương pháp biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Hồ Chí Minh đã tiếp thu được những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hóa phương Đông và phương Tây để hình thành tư tưởng của mình. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Những cống hiến đó của Người có được trước hết do Người đã nắm được bản chất cốt lõi, “linh hồn sống” trong tư tưởng của các nhà kinh điển Mác - Lê-nin là phép biện chứng duy vật.
Theo Hồ Chí Minh, mục đích học chủ nghĩa Mác - Lê-nin là để “phụng sự lợi ích chung, chứ không có gì cao xa”(5), “nếu không hết lòng hết sức phụng sự nhân dân, tự kiêu, tự đại, tự tư, tự lợi như thế là trái với chủ nghĩa Mác - Lê-nin”(6). Hồ Chí Minh còn chỉ rõ: “Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình, có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lê-nin được”(7).
Hồ Chí Minh nghiên cứu, tiếp thu, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin không phải theo lối giáo điều, kinh viện, mà có sự phát triển, làm phong phú thêm chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong điều kiện lịch sử mới. Người không bao giờ coi chủ nghĩa Mác - Lê-nin là “cái gì đã xong xuôi hẳn”, là đơn thuốc vạn năng, mà như Người đã nói: “Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được. Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại”(8). Trong bài “V.I. Lê-nin, người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam” viết cho báo Sự thật Liên Xô, Hồ Chí Minh khẳng định “thắng lợi của cách mạng Việt Nam là một thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lê-nin ở một nước trước đây là thuộc địa. Những thành công của cách mạng Việt Nam cũng góp phần ít nhiều vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin”(9).
Đại hội XI của Đảng khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là… kết quả sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của nước ta,…”(10). Có quan điểm cho rằng ở Việt Nam bây giờ học thuyết Mác - Lê-nin đã lỗi thời, chỉ có tư tưởng Hồ Chí Minh là đáng giá, chỉ cần nói tư tưởng Hồ Chí Minh là đủ, không cần nói chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Ở đây không phải là sự ca ngợi, đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh theo đúng giá trị đích thực, vốn có trong tư tưởng của Người. Trái lại, người ta muốn cô lập, tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh ra khỏi nguồn gốc lý luận chủ yếu của tư tưởng này là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, làm suy yếu và tiến tới phủ định chính tư tưởng Hồ Chí Minh. Cùng một lúc, luận điểm sai trái đó nhằm ba mục tiêu: phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin; phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh; theo đó, phủ nhận nền tảng tư tưởng, cương lĩnh, đường lối của Đảng, làm suy yếu và đi đến xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là yếu tố quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay
Thắng lợi của cách mạng cũng như sự trưởng thành, lớn mạnh của Đảng Cộng sản Việt Nam hơn 84 năm qua là kết quả tổng hợp của rất nhiều yếu tố. Nhưng có một thực tế không thể phủ nhận, đó là nhờ Đảng ta đã được vũ trang bằng lý luận cách mạng và khoa học nhất của thời đại - chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong giai đoạn tới, việc tiếp tục kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của Việt Nam vẫn là một tất yếu khách quan, là một nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết.
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ Luận cương chính trị tháng 10-1930 cho đến văn kiện Đại hội VI đều khẳng định chủ nghĩa Mác - Lê-nin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam. Từ Đại hội VII đến nay, Đảng ta có sự phát triển, bổ sung mới: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng của Đảng”. Đây là biểu hiện về nhận thức đúng đắn, sâu sắc về mối quan hệ giữa chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đảng ta đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội XI của Đảng (tháng 01-2011) đã tổng kết thực tiễn 25 năm đổi mới và rút ra một số bài học kinh nghiệm, trong đó có bài học: “trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào, phải kiên trì thực hiện đường lối và mục tiêu đổi mới, kiên định và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”(11). Như vậy, Đảng ta xác định rất rõ ràng: công cuộc đổi mới hiện nay phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh… Đổi mới không phải xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng. Lịch sử đã chứng minh, nếu mơ hồ, dao động về hệ tư tưởng thì sẽ lúng túng trong hoạch định chủ trương, đường lối, rối loạn trong tổ chức và tất yếu dẫn đến thất bại trong hành động. Vì vậy, kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề có tính nguyên tắc đối với Đảng ta, là nhiệm vụ quan trọng trong toàn bộ công tác tư tưởng, lý luận, nhất là trong bối cảnh mới của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Điều đó càng đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam tuyệt đối không được xa rời hoặc từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trái lại, cần kiên định, vận dụng, linh hoạt chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trên chính mảnh đất hiện thực Việt Nam hiện nay. Những “lý sự” cố tình tách rời, cô lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lê-nin là hoàn toàn trái với quan điểm, đường lối của Đảng ta. Chúng ta phải kiên quyết đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch đó để bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”./.

Thứ Ba, 26 tháng 8, 2014

Sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa Mác

Trước hết, cần khẳng định, giá trị lớn lao và sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa Mác không phải ở chỗ nó cung cấp những lời giải đáp cho mọi vấn đề của thực tiễn thế giới, mà ở chỗ nó chỉ ra quy luật vận động khách quan của xã hội, chỉ ra những nhiệm vụ lịch sử cần giải quyết để từng bước giải phóng các giai cấp lao động và các dân tộc bị áp bức, giải phóng con người và xã hội loài người khỏi mọi sự tha hóa, xây dựng một xã hội "Trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự  do của  tất cả  mọi  người".

Với tư cách là nhà khoa học thiên tài, Mác đã có những cống hiến kiệt xuất tạo ra một cuộc cách mạng triệt để trong toàn bộ quan niệm về lịch sử thế giới. Trên cơ sở tổng kết lịch sử thế giới, đặc biệt là sự nghiên cứu công phu về chủ nghĩa tư bản và thực tiễn phong trào công nhân quốc tế, đồng thời kế thừa những giá trị tinh hoa của nhân loại trong các lĩnh vực khoa học và tư tưởng, Mác cùng với Ăng-ghen đã sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, học thuyết giá trị thặng dư và học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Ðây là những cống hiến có ý nghĩa thời đại, hình thành một thế giới quan và một phương pháp luận khoa học và cách mạng, đem lại cho nhân loại và cho giai cấp công nhân một công cụ vĩ đại để nhận thức và cải tạo thế giới.
Mác là người đầu tiên đã áp dụng phép biện chứng duy vật vào nghiên cứu lịch sử, từ đó đưa ra quan điểm duy vật về lịch sử và xây dựng học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội. Theo Mác, sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội, chính sản xuất vật chất là nguyên nhân sâu xa nhất tạo nên sự biến đổi và phát triển các lĩnh vực chính trị, văn hóa, xã hội, tinh thần, pháp luật, đạo đức..., chứ không phải ngược lại. Cái thúc đẩy sự vận động của lịch sử không phải là sức mạnh siêu tự nhiên, cũng không phải là những tư tưởng hay ý chí của con người, của các vĩ nhân, mà chính là sản xuất vật chất.
Học thuyết về giá trị thặng dư là một trong ba phát kiến vĩ đại của Mác, là “hòn đá tảng” trong học thuyết Mác. Với phát kiến này, Mác đã bóc trần bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, lý giải nguồn gốc dẫn tới sự bất công, bất bình đẳng trong xã hội tư bản. Ngày nay, trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, dưới tác động của cách mạng khoa học - công nghệ, quá trình toàn cầu hóa và kinh tế tri thức, quy luật giá trị thặng dư vẫn phát huy tác dụng. Lao động trí tuệ hóa với máy móc hiện đại càng tạo ra giá trị thặng dư lớn hơn cho nhà tư bản.
Mặc dù đội ngũ giai cấp công nhân rất đa dạng về nghề nghiệp, với sự xuất hiện hàng loạt lĩnh vực sản xuất, dịch vụ mới hiện đại, nhưng xét về địa vị của họ trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, thì họ vẫn đều là những người lao động làm thuê bị cột chặt vào tư bản và họ chỉ được thuê khi có thể làm gia tăng khối lượng giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
Một cống hiến kiệt xuất khác của Mác là đã xây dựng học thuyết về chủ nghĩa xã hội, trong đó ông chỉ ra những nguyên tắc chung nhất, cơ bản nhất của xã hội tương lai sẽ thay thế chủ nghĩa tư bản. Mác đã luận giải một cách khoa học về sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân, về vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, về khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản ở các nước lạc hậu... Từ đây, Người đã vạch ra đường lối chiến lược, sách lược đấu tranh cách mạng, phương thức giành chính quyền về tay giai cấp công nhân,v.v.
Mác là một nhà khoa học có bản lĩnh, sức sáng tạo phi thường và khả năng làm việc hiếm thấy. Một khối lượng đồ sộ hàng nghìn công trình khoa học của riêng Mác và cùng viết với Ăng-ghen đã được công bố, là kết quả của cả cuộc đời nghiên cứu nghiêm túc, cẩn trọng, gắn với những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Với Mác, bản chất của lý luận không bao giờ là hoàn chỉnh trọn vẹn cả, do đó Người đã không ngần ngại sửa đổi những quan điểm lý luận của mình không còn phù hợp với điều kiện mới của thực tiễn cuộc sống.
Không chỉ là một nhà tư tưởng, nhà bác học thiên tài, Mác đồng thời là nhà cách mạng vĩ đại. Sinh thành tại nước Ðức giàu truyền thống cách mạng và bôn ba hoạt động ở nhiều nước Tây Âu, Mác từng chứng kiến sự bần cùng của những người lao động làm thuê và sự bất công của xã hội tư bản. Với trái tim nhân hậu thấm đượm tinh thần nhân văn cộng sản và bầu nhiệt huyết cách mạng, Người đã hiến dâng trọn cuộc đời mình đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Thông qua hoạt động trực tiếp trong phong trào công nhân, Mác đưa lý luận thâm nhập vào phong trào, biến lý luận thành lực lượng vật chất to lớn, thúc đẩy cách mạng và sự phát triển của xã hội.
Kiên định một cách nhất quán lập trường cách mạng, Mác không bao giờ lùi bước, khuất phục trước sức ép của chính quyền tư sản, đồng thời cũng kiên quyết chống lại mọi biểu hiện giáo điều, cơ hội, xét lại phản bội lý tưởng, mục tiêu cách mạng, đi ngược lại nguyên tắc, quyền lợi của phong trào công nhân. Người chỉ rõ, phải căn cứ vào điều kiện thực tiễn cụ thể mà đề ra mục tiêu cách mạng phù hợp, giữ vững nguyên tắc nhưng mềm dẻo về phương pháp và linh hoạt về hình thức đấu tranh...
Bất chấp những biến cố thăng trầm của lịch sử, sự nghiệp cách mạng và những cống hiến khoa học lý luận kiệt xuất cùng với nhân cách sống bình dị mà cao thượng của Mác vẫn tràn đầy sức sống, tiếp tục tỏa sáng, định hướng cho hành động cách mạng của các đảng cộng sản và công nhân trên thế giới, trong đó có Ðảng ta. Có thể nói, thực tiễn cách mạng Việt Nam là một biểu hiện sinh động, đầy sức thuyết phục về sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa Mác-Lê-nin.

Thứ Tư, 20 tháng 8, 2014

CHÙM ẢNH: Bộ đội Biên phòng Việt Nam sẵn sàng bảo vệ biên giới

Nạn đói 1944 – 1945: Ký ức 70 năm không thể phai mờ!

ĐCSVN)Cách đây 70 năm, nạn đói khủng khiếp giai đoạn 1944 – 1945 cướp đi sinh mạng của hơn 2 triệu người dân Việt Nam, chủ yếu ở các tỉnh phía Bắc, gây biết bao đau thương, tang tóc cho dân tộc Việt Nam. 70 năm đã qua đi, nhưng những ký ức về nạn đói năm ấy vẫn không thể phai mờ trong tâm khảm của mỗi người dân Việt Nam.

70 năm qua, hầu hết chúng ta đều nghĩ rằng, nạn đói khủng khiếp ấy xảy ra trong năm 1945, nên vẫn quen nói "nạn đói năm Ất Dậu 1945". Nhưng kỳ thực là nạn đói ấy bắt đầu từ khoảng tháng 3 năm 1944, tàn khốc nhất là thời điểm bắt đầu bước vào vụ mùa (tháng 7, 8) của năm ấy. Nạn đói ấy kéo dài sang nửa đầu năm 1945 và chỉ thực sự chấm dứt khi mà phong trào cách mạng giải phóng dân tộc do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo lên đến đỉnh cao và giành được thắng lợi vào tháng Tám năm 1945.
 
Thu gom xác người dân bị chết đói trong nạn đói lịch sử 1944 - 1945
(Ảnh tư liệu của cố Nghệ sỹ nhiếp ảnh Võ An Ninh)

Nạn đói 1944 – 1945 đã cướp đi sinh mạng của 2 triệu người Việt Nam
Trong cuốn sách "Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam – Tập II", Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, phát hành năm 2008, trang 921, có ghi: "Do chính sách vơ vét của đế quốc phát xít Pháp - Nhật, các cuộc ném bom của Đồng minh ngăn chặn sự thông thương Bắc - Nam, do mất mùa, từ cuối năm 1944 đến đầu năm 1945, nạn đói trầm trọng đã diễn ra ở Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ. Đây là nạn đói khủng khiếp nhất trong lịch sử dân tộc ta. Theo thống kê từ các địa phương bị nạn đói hoành hành, chỉ trong thời gian ngắn, nạn đói đã cướp đi sinh mạng của 2 triệu người, bằng một phần mười dân số Việt Nam lúc bấy giờ. Các tỉnh có số người chết nhiều là: Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình... có nơi chết cả làng".
Còn trong cuốn sách "Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Bình", xuất bản năm 1986 có ghi: "Năm 1945, cả tỉnh có 280.000 người chết đói, chiếm 25% tổng dân số. Nhiều địa phương chết tới trên 50% dân số, như: xã Tây Lương: 67%; Sơn Thọ, Thụy Anh (Thái Thụy): 79%; xã Thanh Nê (Kiến Xương) có 4.164 người thì chết gần 2.000 người; xã Tây Ninh (Tiền Hải) có 171 gia đình chết không còn một ai…".
Hay trong cuốn sách "Lịch sử tỉnh Hà Nam Ninh", xuất bản năm 1988, cũng có ghi: "Phủ Nghĩa Hưng, Nam Định mỗi ngày chết 400 người. Huyện Kim Sơn (Ninh Bình), cả vụ đói có 22.908 người chết. Trong 6.161 hộ của cả tỉnh Hà Nam Ninh thì có 1.571 hộ chết không còn người nào. Nam Định chết 212.218 người; Ninh Bình: 37.939 người, Hà Nam: 50.398 người…".
Những địa phương kể trên là những nơi có nhiều người dân bị chết trong nạn đói 1944 – 1945. Về sau này, theo điều tra, nghiên cứu của Viện Sử học Việt Nam, nạn đói giai đoạn 1944 – 1945 xảy ra trên địa bàn 32 tỉnh, thành cũ từ Quảng Trị trở ra. Dân số Việt Nam năm 1945 tại 32 tỉnh, thành là trên 13 triệu người, còn toàn cõi Việt Nam là khoảng trên 20 triệu người. Số người chết đói tại các địa phương là khoảng 2 triệu người, tương đương 10% dân số.
Những nguyên nhân dẫn đến nạn đói 1944 – 1945
Qua các tài liệu, tư liệu, có thể tổng kết ba nguyên nhân chính đã gây nạn đói năm 1944 – 1945:
Nguyên nhân thứ nhất và trực tiếp là do những hậu quả của chiến tranh tại Đông Dương. Các cường quốc chiếm đóng Việt Nam như: Thực dân Pháp, phát xít Nhật vì mục đích phục vụ chiến tranh đã lạm dụng và khai thác quá mức vào nông nghiệp vốn đã lạc hậu, đói kém của các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam, gây ảnh hưởng  nghiêm trọng đến sinh hoạt kinh tế của người Việt Nam. Những biện pháp quân sự hóa kinh tế nhằm phục vụ nhu cầu chiến tranh của chế độ thực dân Pháp tại Việt Nam (do tại nước Pháp khi đó cũng đang có chiến tranh và đang bị phát xít Đức xâm chiếm); sau đó, phát xít Nhật Bản dùng vũ lực hất cẳng Pháp, chiếm đóng Việt Nam, lại tiếp tục thực hiện các biện pháp khác khốc liệt hơn nhằm mục đích khai thác phục vụ chiến tranh (như: Bắt nông dân nhổ lúa trồng đay, buộc người dân bán lúa gạo với giá rẻ mạt để chuyển về Nhật...). Trong khi lúc này (trước Cách mạng tháng Tám), lực lượng cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam còn non trẻ, chưa giành được chính quyền, chưa tự chủ được về kinh tế, chưa giải phóng được nhiều ruộng đất và người dân khỏi ách đô hộ của thực dân, phong kiến, phát xít nên chưa đủ sức để hỗ trợ, cứu đói cho người dân… Những biến động quân sự và chính trị dồn dập xảy ra như vậy đã ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất lương thực của miền Bắc vốn dĩ đã thiếu gạo lại càng trở nên thiếu hơn.
Nguyên nhân thứ hai là do các thế lực phong kiến, thực dân áp dụng chính sách sưu thuế nặng từ nhiều năm trước đó đối với người nông dân Việt Nam. Cách thức thu thuế sử dụng mạnh biện pháp tra tấn, đánh đập, bắt buộc người nông dân phải nộp đủ, không miễn giảm đối với các hộ đói nghèo, khiến cho nông dân phải bán tài sản hoặc lương thực để nộp thuế nên không có lương thực dự trữ.
Nguyên nhân thứ ba là do tự nhiên, thời tiết ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất lương thực tại miền Bắc. Vào tháng Tám năm 1945, một trận lũ khủng khiếp đã gây vỡ đê tại 79 điểm, gây ngập 11 tỉnh miền Bắc với tổng diện tích 312.000 ha, ảnh hưởng tới cuộc sống của 4 triệu người… Sau cơn lũ, bệnh dịch tả lây lan nhanh và rộng khắp, cộng với không có thuốc men, lương thực, nên góp phần làm cho nạn đói càng thêm trầm trọng.
Để minh hoạ cho những tổng kết trên đây, xin được trích dẫn một nguyên cứu của Giáo sư Văn Tạo, nguyên Viện trưởng Viện Sử học Việt Nam: Ngoài các chính sách tô cao thuế nặng, phát xít Nhật còn đưa ra một "chương trình kinh tế chỉ huy" nhằm thực hiện một cách triệt để chủ trương phát xít của mình. Chiến tranh giữa phát xít Nhật và quân Đồng minh (trong đó có thực dân Pháp) làm cho nhu cầu nhiên liệu: than, dầu, điện của Nhật tăng cao. Chúng đã lấy ngô, vừng, lạc và cả lúa gạo để thay thế những nhiên liệu này phục vụ mưu đồ phát xít, đẩy người dân vào thảm họa chết đói…
Những nỗ lực cứu đói của lực lượng cách mạng Việt Nam
Đứng trước vận mệnh của dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh phong trao đấu tranh đánh Pháp, đuổi Nhật, giành chính quyền,  vừa phát động phong trào "Phá kho thóc, giải quyết nạn đói".
Trong cuốn sách "Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam – Tập II", Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, phát hành năm 2008, từ trang 921 đến trang 925, có ghi lại rất rõ về Phong trào này: "Xuất phát từ lợi ích của nhân dân, từ nhu cầu hoạt động của cán bộ, đảng viên, từ sự thành bại của phong trào cách mạng, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương tháng 3 năm 1945 đề ra khẩu hiệu: "Phá kho thóc giải quyết nạn đói". Khẩu hiệu này được đưa ra đồng thời với khởi nghĩa từng phần, và Đảng coi đây là trọng tâm công tác, là khâu chính để biến lòng căm thù của nhân dân thành hành động cứu nước.
Đáp ứng đúng nguyện vọng của toàn dân, giải quyết từng mâu thuẫn đang diễn ra gay gắt trong xã hội nước ta, chủ trương của Đảng đã lôi cuốn hàng triệu quần chúng vào phong trào phá kho thóc, chống đói với nhiều hình thức từ thấp đến cao, phong phú và sáng tạo.
Ở các tỉnh miền núi: Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Yên Bái, các lực lượng vũ trang cùng quần chúng nhân dân kết hợp đánh đồn, phá chính quyền địch với phá kho thóc, kho muối chia cho nhân dân hoặc tích trữ cho bộ đội, du kích. Tại những tỉnh này, lực lượng vũ trang cùng nhân dân tiến hành phá cho thóc, uy hiếp địch để giành chính quyền hoặc đánh chiếm xong huyện lỵ rồi mới tổ chức nhân dân đi phá kho thóc của địch, cứu đói.
Tại Bắc Giang, Bắc Ninh, hàng ngàn quần chúng đi phá kho thóc của Nhật và bọn tích trữ thóc gạo cho Nhật ở Hiệp Hoà, Yên Phong, Tiên Du, Thuận Thành, thu hàng nghìn tấn thóc chia cho nhân dân.
Ở Vĩnh Yên, Phúc Yên trong tháng 3 và tháng 4, lực lượng du kích và tự vệ làm nòng cốt cho quần chúng phá hàng chục kho thóc, có kho chứa tới hàng nghìn tấn thóc. Tại Phú Thọ, trong một thời gian ngắn có tới 14 kho thóc bị phá để chia cho dân nghèo
Tại Ninh Bình, chỉ trong ngày 15/3/1945, hàng nghìn quần chúng thuộc các huyện Nho Quan, Gia Viễn phá 12 kho thóc, thu hàng trăm tấn thóc chia cho nông dân. Những cuộc phá kho thóc ở Ninh Bình trở thành những cuộc chống Nhật khủng bố, càn quét, bảo vệ cán bộ và cơ sở. Tại Thái Bình, trong hai tháng 3 và 4, nhiều làng ở các huyện Phụ Dực, Thư Trì, Tiền Hải, Vũ Thư, Tiên Hưng thu được 1000 tấn thóc chia cho dân.
Ở Hải Dương, trong thời gian này, nhân dân đã phá 39 kho thóc, lấy 43 thuyền gạo với 2000 tấn. Riêng nhân dân các huyện phía nam tỉnh phá 26 kho, thu 28 thuyền gạo với 1238 tấn gạo.
Tự vệ và nhân dân Hưng Yên vừa phá các kho thóc, vừa thuyết phục các chánh tổng không thu thóc cho Nhật và chính quyền bù nhìn.
Nhân dân Hà Đông, Sơn Tây tịch thu thóc gạo của địch trên đường số 6, phá các kho thóc ở các huyện Ứng Hoà, Cần Kiểm, Tích Gian, Thạch Xá. Tại Quảng Yên, Hòn Gai nhân dân sử dụng nhiều hình thức dây dưa kéo dài hạn nộp thóc, tiến tới phá các kho thóc, gạo của Nhật và của bọn chủ mỏ.
Công nhân và dân nghèo thành thị ở Hà Nội tiến hành phá kho thóc gạo của Nhật ở các phố Bắc Ninh, Lê Lợi, Phà Đen… thu hàng trăm tấn thóc.
Các tỉnh miền Trung như Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình cũng diễn ca nhiều cuộc phá kho thóc cứu đói. Nhân dân Thanh Hoá có kinh nghiệm: nhân lúc Đồng minh ném bom, quân Nhật sợ hãi chạy trốn, xông vào các kho thóc Nhật để xúc thóc.
Cùng với khởi nghĩa từng phần, phong trào phá kho thóc của Nhật để cứu đói có ý nghĩa kinh tế, chính trị rất sâu sắc và to lớn. Phong trào đã nhanh chóng giải quyết được nạn đói ở nhiều tỉnh, uy tín của Việt Minh lên rất cao. Phong trào thổi bùng lên ngọn lửa đấu tranh và khởi nghĩa trong nhân dân, tập dượt quần chúng đi từ hình thức đấu tranh thấp đến những hình thức đấu tranh cao, kết hợp đấu tranh kinh tế, chính trị, vũ trang chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa".
Cách mạng tháng Tám thành công đã không chỉ giành được chính quyền về tay nhân dân, lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, mà còn chấm dứt được nạn đói 1944 – 1945. Ngay trong những ngày đầu thành lập nước, một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Chính phủ là phải tiêu diệt "giặc đói". Nhiệm vụ tiêu diệt "giặc đói" lúc này được đặt ngang hàng với hai nhiệm vụ tiêu diệt "giặc dốt" và "giặc ngoại xâm".
70 năm đã qua đi, nhưng các thế hệ người Việt Nam vẫn không thể nào quên những ký ức đau thương về nạn đói khủng khiếp năm 1944 – 1945. Đó cũng là bài học nhắc nhở chúng ta phải luôn có ý thức tự lực, tự cường, bảo vệ vững chắc chủ quyền đất nước, cảnh giác và sẵn sàng chống lại các thế lực ngoại xâm; đồng thời, phải chủ động phát triển kinh tế, hội nhập sâu rộng với các nước khu vực và thế giới, vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội, công bằng, dân chủ, văn minh"./.