ĐCSVN) – Cách
đây 70 năm, nạn đói khủng khiếp giai đoạn 1944 – 1945 cướp đi sinh mạng
của hơn 2 triệu người dân Việt Nam, chủ yếu ở các tỉnh phía Bắc, gây
biết bao đau thương, tang tóc cho dân tộc Việt Nam. 70 năm đã qua đi,
nhưng những ký ức về nạn đói năm ấy vẫn không thể phai mờ trong tâm khảm
của mỗi người dân Việt Nam.
70
năm qua, hầu hết chúng ta đều nghĩ rằng, nạn đói khủng khiếp ấy xảy ra
trong năm 1945, nên vẫn quen nói "nạn đói năm Ất Dậu 1945". Nhưng kỳ
thực là nạn đói ấy bắt đầu từ khoảng tháng 3 năm 1944, tàn khốc nhất là
thời điểm bắt đầu bước vào vụ mùa (tháng 7, 8) của năm ấy. Nạn đói ấy
kéo dài sang nửa đầu năm 1945 và chỉ thực sự chấm dứt khi mà phong trào
cách mạng giải phóng dân tộc do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ
Chí Minh lãnh đạo lên đến đỉnh cao và giành được thắng lợi vào tháng Tám
năm 1945.
|
Thu gom xác người dân bị chết đói trong nạn đói lịch sử 1944 - 1945 (Ảnh tư liệu của cố Nghệ sỹ nhiếp ảnh Võ An Ninh)
|
Nạn đói 1944 – 1945 đã cướp đi sinh mạng của 2 triệu người Việt Nam
Trong
cuốn sách "Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam – Tập II", Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, phát hành năm 2008, trang 921, có ghi: "Do
chính sách vơ vét của đế quốc phát xít Pháp - Nhật, các cuộc ném bom
của Đồng minh ngăn chặn sự thông thương Bắc - Nam, do mất mùa, từ cuối
năm 1944 đến đầu năm 1945, nạn đói trầm trọng đã diễn ra ở Bắc Kỳ và Bắc
Trung Kỳ. Đây là nạn đói khủng khiếp nhất trong lịch sử dân tộc ta.
Theo thống kê từ các địa phương bị nạn đói hoành hành, chỉ trong thời
gian ngắn, nạn đói đã cướp đi sinh mạng của 2 triệu người, bằng một phần
mười dân số Việt Nam lúc bấy giờ. Các tỉnh có số người chết nhiều là:
Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình... có nơi chết cả làng".
Còn trong cuốn sách "Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Bình", xuất bản năm 1986 có ghi: "Năm
1945, cả tỉnh có 280.000 người chết đói, chiếm 25% tổng dân số. Nhiều
địa phương chết tới trên 50% dân số, như: xã Tây Lương: 67%; Sơn Thọ,
Thụy Anh (Thái Thụy): 79%; xã Thanh Nê (Kiến Xương) có 4.164 người thì
chết gần 2.000 người; xã Tây Ninh (Tiền Hải) có 171 gia đình chết không
còn một ai…".
Hay trong cuốn sách "Lịch sử tỉnh Hà Nam Ninh", xuất bản năm 1988, cũng có ghi: "Phủ
Nghĩa Hưng, Nam Định mỗi ngày chết 400 người. Huyện Kim Sơn (Ninh
Bình), cả vụ đói có 22.908 người chết. Trong 6.161 hộ của cả tỉnh Hà Nam
Ninh thì có 1.571 hộ chết không còn người nào. Nam Định chết 212.218
người; Ninh Bình: 37.939 người, Hà Nam: 50.398 người…".
Những địa phương kể trên là những nơi có nhiều người dân bị chết trong nạn đói 1944 – 1945. Về sau này, theo
điều tra, nghiên cứu của Viện Sử học Việt Nam, nạn đói giai đoạn 1944 –
1945 xảy ra trên địa bàn 32 tỉnh, thành cũ từ Quảng Trị trở ra. Dân số
Việt Nam năm 1945 tại 32 tỉnh, thành là trên 13 triệu người, còn toàn
cõi Việt Nam là khoảng trên 20 triệu người. Số người chết đói tại các
địa phương là khoảng 2 triệu người, tương đương 10% dân số.
Những nguyên nhân dẫn đến nạn đói 1944 – 1945
Qua các tài liệu, tư liệu, có thể tổng kết ba nguyên nhân chính đã gây nạn đói năm 1944 – 1945:
Nguyên nhân thứ nhất và trực
tiếp là do những hậu quả của chiến tranh tại Đông Dương. Các cường quốc
chiếm đóng Việt Nam như: Thực dân Pháp, phát xít Nhật vì mục đích phục
vụ chiến tranh đã lạm dụng và khai thác quá mức vào nông nghiệp vốn đã
lạc hậu, đói kém của các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam, gây ảnh
hưởng nghiêm trọng đến sinh hoạt kinh tế của người Việt Nam. Những biện
pháp quân sự hóa kinh tế nhằm phục vụ nhu cầu chiến tranh của chế độ
thực dân Pháp tại Việt Nam (do tại nước Pháp khi đó cũng đang có chiến
tranh và đang bị phát xít Đức xâm chiếm); sau đó, phát xít Nhật Bản dùng
vũ lực hất cẳng Pháp, chiếm đóng Việt Nam, lại tiếp tục thực hiện các
biện pháp khác khốc liệt hơn nhằm mục đích khai thác phục vụ chiến tranh
(như: Bắt nông dân nhổ lúa trồng đay, buộc người dân bán lúa gạo với
giá rẻ mạt để chuyển về Nhật...). Trong khi lúc này (trước Cách mạng
tháng Tám), lực lượng cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam còn non trẻ,
chưa giành được chính quyền, chưa tự chủ được về kinh tế, chưa giải
phóng được nhiều ruộng đất và người dân khỏi ách đô hộ của thực dân,
phong kiến, phát xít nên chưa đủ sức để hỗ trợ, cứu đói cho người dân…
Những biến động quân sự và chính trị dồn dập xảy ra như vậy đã ảnh hưởng
tiêu cực đến sản xuất lương thực của miền Bắc vốn dĩ đã thiếu gạo lại
càng trở nên thiếu hơn.
Nguyên nhân thứ hai là do các
thế lực phong kiến, thực dân áp dụng chính sách sưu thuế nặng từ nhiều
năm trước đó đối với người nông dân Việt Nam. Cách thức thu thuế sử dụng
mạnh biện pháp tra tấn, đánh đập, bắt buộc người nông dân phải nộp đủ,
không miễn giảm đối với các hộ đói nghèo, khiến cho nông dân phải bán
tài sản hoặc lương thực để nộp thuế nên không có lương thực dự trữ.
Nguyên nhân thứ ba là do tự
nhiên, thời tiết ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất lương thực tại miền
Bắc. Vào tháng Tám năm 1945, một trận lũ khủng khiếp đã gây vỡ đê tại
79 điểm, gây ngập 11 tỉnh miền Bắc với tổng diện tích 312.000 ha, ảnh
hưởng tới cuộc sống của 4 triệu người… Sau cơn lũ, bệnh dịch tả lây lan
nhanh và rộng khắp, cộng với không có thuốc men, lương thực, nên góp
phần làm cho nạn đói càng thêm trầm trọng.
Để minh hoạ cho những tổng kết trên
đây, xin được trích dẫn một nguyên cứu của Giáo sư Văn Tạo, nguyên Viện
trưởng Viện Sử học Việt Nam: Ngoài các chính sách tô cao thuế nặng,
phát xít Nhật còn đưa ra một "chương trình kinh tế chỉ huy" nhằm thực
hiện một cách triệt để chủ trương phát xít của mình. Chiến
tranh giữa phát xít Nhật và quân Đồng minh (trong đó có thực dân Pháp)
làm cho nhu cầu nhiên liệu: than, dầu, điện của Nhật tăng cao. Chúng đã
lấy ngô, vừng, lạc và cả lúa gạo để thay thế những nhiên liệu này phục
vụ mưu đồ phát xít, đẩy người dân vào thảm họa chết đói…
Những nỗ lực cứu đói của lực lượng cách mạng Việt Nam
Đứng trước vận mệnh của dân tộc, Đảng
Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh
phong trao đấu tranh đánh Pháp, đuổi Nhật, giành chính quyền, vừa phát
động phong trào "Phá kho thóc, giải quyết nạn đói".
Trong cuốn sách "Lịch
sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam – Tập II", Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, phát hành năm 2008, từ trang 921 đến trang 925, có ghi lại rất
rõ về Phong trào này: "Xuất phát từ lợi
ích của nhân dân, từ nhu cầu hoạt động của cán bộ, đảng viên, từ sự
thành bại của phong trào cách mạng, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương
tháng 3 năm 1945 đề ra khẩu hiệu: "Phá kho thóc giải quyết nạn đói".
Khẩu hiệu này được đưa ra đồng thời với khởi nghĩa từng phần, và Đảng
coi đây là trọng tâm công tác, là khâu chính để biến lòng căm thù của
nhân dân thành hành động cứu nước.
Đáp
ứng đúng nguyện vọng của toàn dân, giải quyết từng mâu thuẫn đang diễn
ra gay gắt trong xã hội nước ta, chủ trương của Đảng đã lôi cuốn hàng
triệu quần chúng vào phong trào phá kho thóc, chống đói với nhiều hình
thức từ thấp đến cao, phong phú và sáng tạo.
Ở
các tỉnh miền núi: Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Yên Bái, các lực
lượng vũ trang cùng quần chúng nhân dân kết hợp đánh đồn, phá chính
quyền địch với phá kho thóc, kho muối chia cho nhân dân hoặc tích trữ
cho bộ đội, du kích. Tại những tỉnh này, lực lượng vũ trang cùng nhân
dân tiến hành phá cho thóc, uy hiếp địch để giành chính quyền hoặc đánh
chiếm xong huyện lỵ rồi mới tổ chức nhân dân đi phá kho thóc của địch,
cứu đói.
Tại
Bắc Giang, Bắc Ninh, hàng ngàn quần chúng đi phá kho thóc của Nhật và
bọn tích trữ thóc gạo cho Nhật ở Hiệp Hoà, Yên Phong, Tiên Du, Thuận
Thành, thu hàng nghìn tấn thóc chia cho nhân dân.
Ở
Vĩnh Yên, Phúc Yên trong tháng 3 và tháng 4, lực lượng du kích và tự vệ
làm nòng cốt cho quần chúng phá hàng chục kho thóc, có kho chứa tới
hàng nghìn tấn thóc. Tại Phú Thọ, trong một thời gian ngắn có tới 14 kho
thóc bị phá để chia cho dân nghèo
Tại
Ninh Bình, chỉ trong ngày 15/3/1945, hàng nghìn quần chúng thuộc các
huyện Nho Quan, Gia Viễn phá 12 kho thóc, thu hàng trăm tấn thóc chia
cho nông dân. Những cuộc phá kho thóc ở Ninh Bình trở thành những cuộc
chống Nhật khủng bố, càn quét, bảo vệ cán bộ và cơ sở. Tại Thái Bình,
trong hai tháng 3 và 4, nhiều làng ở các huyện Phụ Dực, Thư Trì, Tiền
Hải, Vũ Thư, Tiên Hưng thu được 1000 tấn thóc chia cho dân.
Ở
Hải Dương, trong thời gian này, nhân dân đã phá 39 kho thóc, lấy 43
thuyền gạo với 2000 tấn. Riêng nhân dân các huyện phía nam tỉnh phá 26
kho, thu 28 thuyền gạo với 1238 tấn gạo.
Tự vệ và nhân dân Hưng Yên vừa phá các kho thóc, vừa thuyết phục các chánh tổng không thu thóc cho Nhật và chính quyền bù nhìn.
Nhân
dân Hà Đông, Sơn Tây tịch thu thóc gạo của địch trên đường số 6, phá
các kho thóc ở các huyện Ứng Hoà, Cần Kiểm, Tích Gian, Thạch Xá. Tại
Quảng Yên, Hòn Gai nhân dân sử dụng nhiều hình thức dây dưa kéo dài hạn
nộp thóc, tiến tới phá các kho thóc, gạo của Nhật và của bọn chủ mỏ.
Công
nhân và dân nghèo thành thị ở Hà Nội tiến hành phá kho thóc gạo của
Nhật ở các phố Bắc Ninh, Lê Lợi, Phà Đen… thu hàng trăm tấn thóc.
Các
tỉnh miền Trung như Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình cũng diễn
ca nhiều cuộc phá kho thóc cứu đói. Nhân dân Thanh Hoá có kinh nghiệm:
nhân lúc Đồng minh ném bom, quân Nhật sợ hãi chạy trốn, xông vào các kho
thóc Nhật để xúc thóc.
Cùng
với khởi nghĩa từng phần, phong trào phá kho thóc của Nhật để cứu đói
có ý nghĩa kinh tế, chính trị rất sâu sắc và to lớn. Phong trào đã nhanh
chóng giải quyết được nạn đói ở nhiều tỉnh, uy tín của Việt Minh lên
rất cao. Phong trào thổi bùng lên ngọn lửa đấu tranh và khởi nghĩa trong
nhân dân, tập dượt quần chúng đi từ hình thức đấu tranh thấp đến những
hình thức đấu tranh cao, kết hợp đấu tranh kinh tế, chính trị, vũ trang
chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa".
Cách mạng tháng Tám thành công đã không
chỉ giành được chính quyền về tay nhân dân, lập ra nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà, mà còn chấm dứt được nạn đói 1944 – 1945. Ngay trong những
ngày đầu thành lập nước, một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu
của Chính phủ là phải tiêu diệt "giặc đói". Nhiệm vụ tiêu diệt "giặc
đói" lúc này được đặt ngang hàng với hai nhiệm vụ tiêu diệt "giặc dốt"
và "giặc ngoại xâm".
70 năm đã qua đi, nhưng các thế hệ người
Việt Nam vẫn không thể nào quên những ký ức đau thương về nạn đói khủng
khiếp năm 1944 – 1945. Đó cũng là bài học nhắc nhở chúng ta phải luôn có
ý thức tự lực, tự cường, bảo vệ vững chắc chủ quyền đất nước, cảnh giác
và sẵn sàng chống lại các thế lực ngoại xâm; đồng thời, phải chủ động
phát triển kinh tế, hội nhập sâu rộng với các nước khu vực và thế
giới, vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội, công bằng, dân chủ, văn
minh"./.